Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN 

Trong ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố VT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:403/2020/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020, về việc: “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 684/2020/ QĐXXST-HNGĐ ngày 16/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 31/12/2020, giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Cao Văn K - Sinh năm 1979; Đia chỉ: Đội 7, thôn NL, xã TV, TP.VT, tỉnh PT;

Nghề nghiệp: Công nhân cổ phần Hoàng K (Địa chỉ Khu 2, NL, xã TV, TP.VT, PT).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:

Ông Trần Văn B - Luật sư, Công ty luật Hoàng Long P&T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh PT.

2. Bị đơn: Chị Tạ Thị T - Sinh năm 1986;

Địa chỉ: khu 6, xã TK, huyện LT, tỉnh PT.

Nghề nghiệp: Hiện đang làm tại Công ty điện tử PT, thị xã PT, tỉnh PT.

(Anh K, ông Bình và chị T đều có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là anh Cao Văn K trình bày:

Tại bản án ly hôn sơ thẩm số: 53 ngày 02/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố VT đã Quyết định xử cho chị T được ly hôn với anh K; Về con chung giao cho chị Tạ Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Cao Xuân Đ, sinh ngày 14/9/2017. Khi Tòa án xét xử vụ án thì anh K vắng mặt. Sau khi anh K và chị T ly hôn thì anh K vẫn trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đ, còn chị T không đến đón và thăm nom gì đối với con chung cả, chỉ cách đây khoảng hơn 01 tháng chị T mới đến đòi đón cháu Đ về nuôi dưỡng nhưng anh K không nhất trí. Bởi vì, chị T đã tự viết đơn đề nghị từ chối nhận nuôi con ngày 04/5/2020 và được UBND xã TV xác nhận. Anh K cho rằng chị T bỏ mặc con chung không thăm nom và quan tâm gì đến con chung và đã tự viết đơn từ chối nhận nuôi con nên anh K đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được quyền nuôi dưỡng con chung là cháu Đ. Nếu anh K được quyền nuôi con thì không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn không bổ sung thêm gì, nhất trí lời trình bày trên của anh K. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Phía bị đơn là chị Tạ Thị T trình bày: Sau khi chị Tạ Thị T và anh Cao Văn K được Tòa án xử cho ly hôn và giao con chung là cháu Cao Xuân Đ cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng thì chị T có đến gia đình anh K đòi quyền nuôi con chung, nhưng bố mẹ đẻ anh K không cho chị T đón con chung về nuôi dưỡng theo quyết định của bản án. Nay anh K đòi quyền nuôi con chung chị T không nhất trí;

Chị T trình bày lý do có đơn đề nghị từ chối nhận quyền nuôi con ngày 04/5/2020 được UBND xã TV xác nhận như sau: Do chị T cần tách hộ khẩu nên chị có đến Công an xã TV làm thủ tục và được anh Đỗ Huy Hoàng, Công an viên xã TV là người trực tiếp đọc cho chị T viết toàn bộ nội dung lá đơn trên. Trước khi anh Hoàng đọc cho chị T viết nội dung đơn trên thì anh Hoàng không đe dọa, đánh đập gì chị T cả. Chị T thừa nhận nội dung đơn đề nghị từ chối nhận nuôi con là do chị trực tiếp viết, không bị ai ép buộc gì cả.

- Chị T và anh K đều thừa nhận hai bên chưa bên nào có gia đình riêng cả. Chị T hiện đang ở chung ở với mẹ đẻ và 02 em trai tại khu 6, xã TK, LT, tỉnh PT, trong đó có 01 em trai đã xây dựng gia đình và có 01 con chung gần 02 tuổi; Còn anh K đang ở với bố mẹ đẻ và cháu Đ ở tại NL, xã TV, thành phố VT, tỉnh PT.

- Về thu nhập: Chị T thu nhập bình quân khoảng hơn 6.000.000đ/1 tháng;

Còn anh K thu nhập bình quân 12.000.000đ/1 tháng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố VT tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh K và giao cho anh K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Cao Xuân Đ, sinh ngày 14/9/2017 và không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh K không yêu cầu.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đó được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình: “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn" giữa nguyên đơn là anh Cao Văn K có hộ khẩu tại xã TV và bị đơn là chị Tạ Thị T có hộ khẩu tại xã TK, huyện LT, tỉnh PT. Anh K và chị T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố VT giải quyết vụ án. Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, Điều 35, điểm b Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT.

[2]. Về nội dung: Tại bản án số: 53/2019/HNGĐ-ST ngày 02/12/2019, của Tòa án nhân dân thành phố VT đã Quyết định xử cho chị T được ly hôn với anh K; Về con chung giao chị T được quyền nuôi dưỡng con chung là cháu Cao Xuân Đ, sinh ngày 14/9/2017.

Sau khi bản án số: 53/2019/HNGĐ-ST ngày 02/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT có hiệu lực pháp luật cho đến nay thì anh K là người đang trực nuôi dưỡng cháu Đ, hiện cháu Đ đang học tại Cơ sở giáo dục mần non Sơn Ca, xã TV, thành phố VT, tỉnh PT. Nay anh K đề nghị Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là giao cháu Cao Xuân Đ cho anh K được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị T không nhất trí và đề nghị được nuôi cháu Đ.

Xét nguyện vọng xin được nuôi con chung của anh K và chị T là chính đáng. Từ khi anh K và chị T ly hôn, hai bên đều có công việc và thu nhập ổn định nên điều kiện về kinh tế của hai bên là như nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng sau khi ly hôn mặc dù chị T được quyền nuôi con nhưng chị T đã không đón cháu Đ về nuôi, chị T cho rằng có đến đón cháu nhưng bố mẹ đẻ anh K không cho đón cháu Đ về nuôi dưỡng nhưng chị T cũng không làm đơn đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố VT thi hành bản án số 53/2019/HNGĐ-ST ngày 02/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố VT đã có hiệu lực pháp luật (Bản án có hiệu lực từ năm 2019). Hơn nữa chị T đã có đơn đề nghị từ chối nhận nuôi con (Đơn đề ngày 04/5/2020) mặc dù tại biên bản hòa giải ngày 15/10/2020 và tại phiên tòa hôm nay chị T thừa nhận khi viết đơn từ chối nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc gì và nêu lý do từ chối nhận quyền nuôi con là vì lúc đó cần tách khẩu từ xã TV, thành phố VT về xã TK, huyện LT, tỉnh PT nhưng có thể thấy chị T chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con. Tại biên bản xác minh của Tòa án tại nơi cháu Đ đang học tập thì xác định hiện cháu Đ đang học lớp 3 tuổi A tại Cơ sở giáo dục mần non Sơn Ca, xã TV, thành phố VT và thường xuyên được ông bà Nội và bố đẻ là anh Cao Văn K thường xuyên chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và đưa đón đi học.

Từ những nhận định trên xét thấy hiện nay cháu Đ đang được anh K trực tiếp nuôi dưỡng và đang học tập ổn định tại Cơ sở giáo dục mần non Sơn Ca, xã TV. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu Đ, điều kiện ăn ở sinh hoạt của hai bên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh K và giao cho anh K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung là cháu Cao Xuân Đ là hoàn toàn phù hợp với lợi ích của cháu Đ và phù hợp với Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh K không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết là phù hợp.

Về án phí: Tại phiên tòa anh Cao Văn K xin tự nguyện nộp toàn bộ án phí nên anh K phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 81, Điều 82, khoản 2 Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội;

1.Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Cao Văn K.

Giao cho anh Cao Văn K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung là cháu Cao Xuân Đ, sinh ngày 14/9/2017. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh K vì anh K không yêu cầu.

Anh K cùng các thành viên trong gia đình không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đối với chị T.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

2. Về án phí : Anh Cao Văn K tự nguyện nộp toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Xác nhận anh Cao Văn K đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/ 0001302 ngày 05/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố VT, tỉnh PT.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7,7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về