Bản án 05/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tài C. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1984. Nơi sinh: huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã D, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký tạm trú: Tiểu khu A, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Nguyễn Tài T, sinh năm 1955 và bà Phí Thị C, sinh năm 1957. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1989. Bị cáo có 02 con, sinh năm 2010 và năm 2012.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Về nhân thân: Tại bản án số 49/2013/HS-ST ngày 20/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt 8.000.000VNĐ về tội đánh bạc, thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mai Sơn. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989. Trú tại: Tiều khu A, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Lò Văn A, sinh năm 1989. Địa chỉ: Bản M, xã L, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 24/9/2019, tổ công tác Công an xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 2, xã C, huyện Mai Sơn, khi kiểm tra quán điện tử của gia đình Lê Thị P (sinh năm 1971, trú tại tiểu khu B, xã C, huyện Mai Sơn) phát hiện Nguyễn Tài C đang ngồi chơi điện tử tại bàn máy số 12 có biểu hiện nghi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác kiểm tra thì C dùng tay trái ném ra bờ tường phía sau chỗ ngồi 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa 13 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY nghi là ma túy tổng hợp. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tài C và niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra còn tạm giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VERTU vỏ màu đen vàng không có sim; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đỏ đen kèm 01 sim; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu đen kèm 01 sim (tại mặt bàn máy số 12 chỗ C ngồi); 1.850.000VNĐ (tại túi quần phía bên trái C đang mặc).

Quá trình điều tra Nguyễn Tài C khai nhận:

Khong đầu tháng 9/2019, C gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, địa chỉ) tại quán ăn sáng của gia đình C thuộc Tiểu khu A, xã C, huyện Mai Sơn. Qua nói chuyện, C biết người này có hồng phiến muốn bán. Đến khoảng 17 giờ ngày 24/9/2019, C nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng. C đi từ nhà đến khu vực sân lương thực thuộc tiểu khu 2, xã C, huyện Mai Sơn, C gặp người đàn ông dân tộc Mông (C gặp đầu tháng 9/2019). C hỏi mua 470.000VNĐ hồng phiến, người đàn ông đồng ý. Sau khi nhận tiền của C, người đàn ông đó lấy 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 14 viên hồng phiến (gồm: 13 viên màu hồng, 01 viên màu xanh) đưa cho C. Mua được hồng phiến, C cất giấu vào túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ đến quán điện tử “Phấn Nét” tại tiểu khu 2, xã C, huyện Mai Sơn chơi. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, thì bị tổ công tác Công an xã C, huyện Mai Sơn kiểm tra hành chính tại quán điện tử “Phấn Nét”. C đã dùng tay trái lấy gói hồng phiến vừa mua được từ trong túi quần bên trái đang mặc, ném ra bờ tường phía sau chỗ ngồi thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn bắt quả tang thu giữ vật chứng nếu trên.

Ngày 25/9/2019, Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Nguyễn Tài C xác định: Tổng khối lượng 13 viên nén màu hồng là 1,31 gam, lấy 06 viên nén có khối lượng 0,59 gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu M1. Khối lượng 01 viên nén màu xanh là 0,09 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu M2.

Ngày 30/9/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 1526/KLMT, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma tuý; loại Methamphetamine. Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 không phải là ma tuý. Tổng khối lượng chất ma tuý thu giữ là 1,31 gam; loại Methamphetamine”.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Tài C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 09/CT-VKSMS ngày 30/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Tài C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày bản luận tội đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 3 Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tài C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tài C từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Pht bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000VNĐ đến 2.000.000VNĐ.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa gói nilon màu xanh gói ma túy ban đầu, vật chứng còn lại sau khi lấy làm mẫu giám định 0,72 gam Methamphetamine;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tài C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VERTU, vỏ màu đen, viền vàng, bàn phím màu vàng không có sim; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đỏ đen kèm 01 sim; số tiền 1.850.000VNĐ.

Trả lại cho Nguyễn Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu đen kèm 01 sim.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tài C đã khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 24/9/2019, tại tiểu khu 2, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Nguyễn Tài C bị tổ công tác Công an xã C, huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang khi đang tàng trữ 1,31 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Li khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám xét lập hồi 21 giờ 30 phút ngày 24/09/2019; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 1526/KLMT ngày 30/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn và không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Như vậy, với việc tàng trữ trái phép 1,31 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tài C đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc mua, tàng trữ nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông buôn bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, vì lẽ đó khi lượng hình cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo Nguyễn Tài C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên phạm tội nghiêm trọng với lỗi cố ý.

Về nhân thân: Bị cáo từng bị xét xử về tội đánh bạc, xử phạt 8.000.000VNĐ về tội đánh bạc bản án số 49/2013/HS-ST ngày 20/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích.

Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Ngoài ra, bố bị cáo là Nguyễn Tài T đã có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ này sẽ được hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định: bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị. Tuy nhiên, cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo số tiền 1.850.000VNĐ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VERTU và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA. Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là những tài sản có giá trị. Do vậy, cần áp dụng khoản 5 Điều 249; khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo số tiền 1.000.000VNĐ để sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 phong bì thư bên trong chứa gói nilon màu xanh chứa ma túy ban đầu, vật chứng còn lại sau khi lấy làm mẫu giám định 0,72 gam Methamphetamine là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đi với số tiền 1.850.000VNĐ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VERTU, vỏ màu đen, viền vàng, bàn phím màu vàng không có sim; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đỏ đen kèm 01 sim thu giữ của Nguyễn Tài C. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đi với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu đen kèm 01 sim thu giữ của Nguyễn Tài C. Xét thấy, đây là tài sản của chị Nguyễn Thu Hiền nên cần trả lại cho chị Nguyễn Thu Hiền.

[7] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trong vụ án, C khai mua của một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) tại khu vực sân lương thực thuộc tiểu khu 2, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (việc mua bán không có người biết, chứng kiến). Ngoài lời khai của C cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh mở rộng vụ án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 3 Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tài C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tài C 18 (Mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 25/9/2019).

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền là 1.000.000VNĐ (Một triệu đồng).

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa gói nilon màu xanh gói ma túy ban đầu, vật chứng còn lại sau khi lấy làm mẫu giám định 0,72 gam Methamphetamine;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tài C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VERTU, vỏ màu đen, viền vàng, bàn phím màu vàng không có sim; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đỏ đen kèm 01 sim; số tiền 1.850.000VNĐ.

Trả lại cho Nguyễn Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu đen kèm 01 sim.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về