Bản án 03/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy   

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại Hội trường xét xử số 2 - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 236/2020/TLST-HS, ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 228 /QĐXXST- HS ngày 28/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vi Thị Minh Ngh; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày 11/9/1982, tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn;

Nơi đăng ký HKTT: Tổ 5, phường B, quận L, thành phố Hà Nội;

Nơi ở: Tổ 9, khu 9, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày,Tôn giáo: không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Họ tên bố: Vi Văn B ; Họ tên mẹ: Vi Thị C Họ tên chồng: Trần Văn N - Sinh năm 1976; (Đã ly hôn) Vũ Đức L - Sinh năm 1978; (Đã ly hôn) Con: có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2010;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 26/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.Có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: Quách Hữu L; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 30/12/1986, tại huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên;

Nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên; Nơi ở: Tổ 9, khu 9, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12;

Họ tên bố: Quách Hữu Ng; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Gi; Họ tên vợ: Nguyễn Thị V - Sinh năm 1986; (Đã ly hôn) Con: có 01 con sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.Có mặt tại phiên tòa

* Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Tiến L – sinh năm 1962; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 8, khu 7, phường Mông D, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Ông Bùi Đình L – sinh năm 1962; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 7, khu 7, phường Mông D, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Vắng mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

- Anh Bùi Thọ T – sinh năm 1994; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 3, khu 9, phường Mông D, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

-Anh Phạm Bá H – sinh năm 1994; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu 9, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vi Thị Minh Ngh và Quách Hữu L đều là đối tượng nghiện ma túy, chung sống với nhau như vợ chồng tại tổ 9, khu 9, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, từ khoảng đầu tháng 6/2020. Để có tiền ăn tiêu cá nhân và mua ma túy sử dụng, Ngh và L đã nảy sinh ý định và nhiều lần có hành vi bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố Cẩm Phả để kiếm lời. Quá trình điều tra, xác định được Ngh và L đã bán trái phép chất ma túy các lần như sau:

Lần thứ nhất: Tối ngày 23/8/2020, khi L đang đi chơi thì nhận được điện thoại của Bùi Thọ T hỏi mua 600.000 đồng tiền ma túy đá. L đồng ý và bảo T đến nhà gặp Ngh để giao dịch, rồi gọi điện thoại báo cho Ngh để chuẩn bị ma túy bán cho T. Sau đó, T đến gặp Ngh tại tổ 9, khu 9, phường Mông D, mua của Ngh 01 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng, đã sử dụng hết.

Lần thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 25/8/2020, khi L và Ngh đang ở nhà, thì L nhận được điện thoại của T hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá và thỏa thuận cầm cố 01 chiếc điện thoại Iphone 6 để mua ma túy, hẹn khi nào có tiền trả sẽ chuộc lại sau. L hỏi Ngh thì Ngh đồng ý và bảo T đến khu vực trên trục đường tỉnh lộ 329, gần nhà L và Ngh để giao dịch. Sau đó, Ngh và L đến địa điểm trên bán 01 túi ma túy cho T, Ngh là người trực tiếp đưa ma túy cho T, còn L cầm điện thoại của T, mang về để tại nhà Ngh.

Ngoài ra, L còn một mình thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy một lần, như sau:

Khong 11 giờ 15 ngày 26/8/2020, L nhận được điện thoại của Phạm Bá H hỏi mua 600.000 đồng tiền ma túy đá. L đồng ý và hẹn H đến gầm cầu vượt khu 9, phường Mông D để giao dịch. Biết Ngh còn ma túy, nên L hỏi xin Ngh một ít ma túy đá, nhưng nói là để đi sử dụng cùng bạn. Ngh đồng ý và đưa cho L 01 túi ma túy đá. Sau đó, L đến điểm hẹn, xẻ một phần ma túy trong túi ma túy mang theo ra 01 túi nilon khác, bán cho H, còn 600.000 đồng tiền mua ma túy, H thỏa thuận sẽ chuyển vào tài khoản ngân hàng cho L. Số ma túy còn lại, L giữ lại để tìm chỗ sử dụng, khi đi đến khu vực thuộc tổ 9, khu 9, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ vật chứng: Thu tại tay phải của L 01 túi nilon, kích thước (03x03)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; thu trong túi quần bên phải, phía trước của L 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, lắp sim số 0866.537.658 và 01 điện thoại Iphone 5, màu trắng, lắp sim số 0834.118.234.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vi Thị Minh Ngh, tại địa chỉ trên, thu giữ: Tại giường ngủ của Ngh: 01 vỏ giấy băng vệ sinh màu trắng, dán nhãn DIANA, bên trong có 04 túi nilon (trong đó: 03 túi có kích thước (4x6)cm, 01 túi có kích thước (4x7)cm, đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 cân tiểu ly bằng nhựa, màu bạc; 01 điện thoại Samsung lắp sim số 0982.332.116; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, không lắp sim; Thu tại cạnh tường gần cửa ra vào phòng ngủ: 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá, gồm 01 bình thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh.

Tại các Bản kết luận giám định số 1204 và 1025 ngày 31/8/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 01 túi nilon kích thước (3x3)cm, thu giữ của Quách Hữu L, là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,569gam; 04 túi nilon thu giữ tại chỗ ở của Vi Thị Minh Ngh là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 11,049gam. (Bút lục số 29, 40) Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Vi Thị Minh Ngh và Quách Hữu L khai nhận hành vi phù hợp nội dung trên, đều thừa nhận số tiền thu được từ việc bán ma túy là để Ngh chi tiêu chung cho cả hai người.

-Ngoài ra, bị cáo Ngh khai: Nguồn gốc số ma túy thu giữ tại nhà bị cáo, cũng như số ma túy bị cáo đã bán cho Bùi Thọ T, cùng số ma túy cho L ngày 26/8/2020 là do bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết tại Hà Nội, vào ngày 21/8/2020, với giá 10.000.000đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo đem cất giấu tại phòng ngủ, mục đích bị cáo mua ma túy để cùng bị cáo L bán và sử dụng. Số tiền 10.000.000đồng mua ma túy là của L, bị cáo mang tiền đi mua ma túy không nói cho L biết, sau khi mua được ma túy thì L mới biết, bị cáo không biết L bán ma túy cho H ngày 26/8/2020; trong số tài sản đồ vật thu giữ tại nhà bị cáo: 01cân tiểu ly bằng nhựa, màu bạc để bị cáo chia ma túy; 01 điện thoại Samsung là của bị cáo, bị cáo dùng để nhận điện thoại của L trong việc bán ma túy cho T ngày 23/8/2020, 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng là điện thoại của T cầm cố để mua ma túy ngày 25/8/2020; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá cũng là của bị cáo.

-Ngoài ra bị cáo L khai: Bị cáo không biết việc ngày 21/8/2020, Ngh đi Hà Nội để mua ma túy, bị cáo biết sau khi Ngh mua được ma túy và biết Ngh cất giấu ma túy tại phòng ngủ, Ngh là người quản lý và quyết định sử dụng hay bán số ma túy mua được, vì vậy khi bị cáo cần sử dụng hay có người hỏi mua ma túy, bị cáo đều phải hỏi Ngh và Ngh là người quyết định có bán hay cho bị cáo ma túy hay không. Trong số 02 chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo, trong đó 01 điện thoại Iphone 6 bị cáo dùng liên lạc bán ma túy cho H, còn 01 điện thoại Iphone 5 bị cáo dùng để chơi điện tử, không liên quan gì đến việc mua bán ma túy.

Người làm chứng trong vụ án là Bùi Thọ T quá trình điều tra có lời khai xác nhận, T đã gọi điện thoại cho bị cáo L rồi đến nhà trọ của Ngh mua ma túy 02 lần, lần thứ nhất ngày 23/8/2020 với giá 500.000đồng và ngày 25/8/2020 hỏi mua 300.000đồng nhưng do không có tiền nên T đã đưa cho L chiếc điện thoại Iphone 6 để cầm cố (BL 137); Ngoài ra T nhận dạng được L và Ngh (BL 141-143) và chỉ dẫn địa điểm nơi T đưa điện thoại cho L và nhận ma túy từ Ngh đều thuộc tổ 9 khu 9 khu 9 phường Mông D (BL 158).

Người làm chứng khác là Phạm Bá H, quá trình điều tra có lời khai xác nhận, ngày 26/8/2020 H đã gọi điện cho L hỏi mua ma túy và được L bán cho một phần trong túi ma túy L có với giá 600.000đồng, L đồng ý để H trả tiền bằng hình thức chuyển vào tài khoản của L (BL 172-173); quá trình điều tra H đã nhận dạnh được bị cáo L (BL 179- 180), chỉ dẫn địa điểm nơi L bán ma túy cho H thuộc tổ 9, khu 9, phường Mông D (Bl 182-184).

-Người chứng kiến là các ông Nguyễn Tiến Lực và ông Bùi Đình Lãng quá trình điều tra đều có lời khai xác nhận: khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 26/8/2020 tại tổ 9 khu 9 phường Mông D thành phố Cẩm Phả các ông chứng kiến Công an kiểm tra và bắt giữ đối tượng sau biết tên là Quách Hữu L, thu giữ trên tay phải của L 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, L khai nhận đó là ma túy đá.( BL 145,151) Tài liệu có trong hồ sơ vụ án có các tài liệu khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối Quách Hữu L (BL22-24); Biên bản khám xét nơi ở của Vi Thị Minh Ngh ( BL 29); Biên bản niêm phong vật chứng thu giữ khi bắt giữ L và khám xét Ngh (BL 32;

33); Tài liệu bị cáo L nhận dạng Bùi Thọ T và Phạm Bá H (BL 97-99); Tài liệu bị cáo Ngh nhận dạng Bùi Thọ T và các tài liệu khác, đều có nội dung phù hợp nội dung các bị cáo khai tại phiên tòa, phù hợp lời khai của người làm chứng, người chứng kiến.

Tại bản cáo trạng số 228/CT-VKSCP ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố các bị cáo Vi Thị Minh Ngh, Quách Hữu L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội các bị cáo với đề nghị kết tội các bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố;

Đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, riêng bị cáo L được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; áp dụng Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vi Thị Minh Ngh từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo Vi Thị Minh Ngh phải chấp hành hình phạt chung từ 9 năm 6 tháng đến 10 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 26/8/2020; Xử phạt bị cáo Quách Hữu L từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 8 năm đến 8 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo Quách Hữu L phải chấp hành hình phạt chung từ 9 năm đến 10 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 26/8/2020;

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận;

Các bị cáo nói lời sau cùng: đều đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Vi Thị Minh Ngh và Quách Hữu L đã khai nhận hành vi bán ma túy cho các đối tượng Bùi Thọ T, Phạm Bá H cũng như mục đích tàng trữ số ma túy thu giữ được của L, của Ngh, lời khai nhận tội này của các bị cáo phù hợp, thống nhất nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng là các đối tượng mua ma túy của các bị cáo, phù hợp lời khai của người chứng kiến, ngoài ra phù hợp tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Quách Hữu L, Biên bản khám xét nơi ở của Vi Thị Minh Ngh, Biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định ma túy, Biên bản nhận dạng, Biên bản xác minh địa điểm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Từ các chứng cứ này, đủ căn cứ kết luận: Tối ngày 23/8/2020 và 25/8/2020, tại tổ 9, khu 9, phường Mông D, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Vi Thị Minh Ngh và Quách Hữu L đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Bùi Thọ T, mỗi lần 01 túi, với giá 500.000 đồng và 300.000 để T sử dụng. Khoảng 11 giờ 30 ngày 26/8/2020, tại khu vực gầm cầu vượt thuộc khu 9, phường Mông D, một mình L đã bán trái phép chất ma túy cho Phạm Bá H, với giá 600.000 đồng, để H sử dụng. Ngoài ra, khoảng 11 giờ 15 ngày 26/8/2020, tại khu vực thuộc tổ 9, khu 9, phường Mông D, Ngh có hành vi cho L 0,569gam chất ma túy, loại Methamphetamine để L sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang. Ngh và L còn có hành vi tàng trữ trái phép 11,049 gam ma túy, loại Methamphetamine, nhằm mục đích để bán, thì bị Công an kiểm tra, thu giữ.

Hành vi trên của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù và phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b,i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, nội dung đề nghị xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Pháp luật hình sự xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy, để nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Các bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý nhưng do lối sống không có trách nhiệm với bản thân và xã hội các bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Để có ma túy sử dụng cho bản thân, các bị cáo đã mua ma túy, sau khi đã bán cho T hai lần và bán cho H 01 lần, còn lại 11,049 gam chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã tiếp tay cho người nghiện có ma túy để sử dụng, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự trị an xã hội. Xét tính chất tội phạm các bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là rất lớn, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, nên cần phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ để giáo dục các bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Vai trò của các bị cáo: Vụ án có đồng phạm ở mức độ giản đơn đối với cả hai tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do nguồn gốc ma túy L tàng trữ trái phép là của Ngh cho, nên cả hai bị cáo vai trò ngang nhau; Đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Ngh là người chủ động tìm mua ma túy và là người trực tiếp quản lý và quyết định việc bán ma túy, bị cáo L khi biết Ngh có ma túy bán đã giúp Ngh bán ma túy, nên Ngh là người chủ mưu, giữ vai trò đầu vụ, L vai trò sau Ngh là người giúp sức cho Ngh, nên Ngh phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn L.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; riêng bị cáo L có bố được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, xác định là người có công với cách mạng, nên bị cáo L được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[6] Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp khác:

-Vật chứng: Số mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ; Số tài sản đồ vật thu giữ của bị cáo L, trong đó 01 điện thoại Iphone 6 là của bị cáo, xác định đã dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 01 chiếc điện thoại Iphone 5, màu trắng, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả cho bị cáo L. Số tài sản, đồ vật thu giữ khi khám xét nơi ở của Ngh, trong đó 01cân tiểu ly bằng nhựa, màu bạc; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá, gồm 01 bình thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh, xác định là vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Samsung là của Ngh, xác định Ngh đã dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

-Biện pháp tư pháp khác: 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng thu giữ tại nhà Ngh là điện thoại của T cầm cố để mua ma túy ngày 25/8/2020, nên xác định là vật do phạm tội mà có, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đủ căn cứ xác định ngày 23/8/2020 Ngh đã nhận tiền bán ma túy cho T số tiền 500.000đồng, nên cần truy thu của Ngh số tiền này để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với đối tượng bán ma túy cho Vi Thị Minh Ngh, do không biết lai lịch, địa chỉ nên không đủ cơ sở để điều tra làm rõ. Các đối tượng Bùi Thọ T và Phạm Bá H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị xử phạt hành chính là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 55 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Vi Thị Minh Ngh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Bị cáo Vi Thị Minh Ngh 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 8 (tám) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Vi Thị Minh Ngh phải chấp hành hình phạt chung là 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 26/8/2020.

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 55 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Quách Hữu L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Bị cáo Quách Hữu L 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Quách Hữu L phải chấp hành hình phạt chung 8 (tám) năm 9 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 26/8/2020.

Áp dụng điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu huỷ: số mẫu vật hoàn lại sau giám định trong 02 phong bì niêm phong số 1204/KLGĐ và 1205/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01cân tiểu ly bằng nhựa, màu bạc; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá, gồm 01 bình thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 nỏ thủy tinh.

-Trả cho bị cáo Quách Hữu L 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, model: A1533, số IMEI: 013986004012931, kèm 01 sim, điện thoại đã qua sử dụng.

-Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng model: A1586, số IMEI: 356148093730130, kèm 01 sim, đã qua sử dụng.

+ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng, Model: A1688, camera sau không có kính bảo vệ, màn hình trước bị nứt vỡ, không kèm sim, đã qua sử dụng.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu hồng, số model: 351590/10/358604/1, số IMEI: 351591/10/358604/9, màn hình bị vỡ, kèm 01 sim, đã qua sử dụng.

(Hiện trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 58/BB-THA ngày 04/01/2021 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.) Truy thu của bị cáo Vi Thị Minh Ngh số tiền 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Vi Thị Minh Ngh và Quách Hữu L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy   

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về