Bản án 03/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BB, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Lê Thanh Q (Tên gọi khác: M), sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Thuận. Hộ khẩu thường trú: Khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh Mỹ và bà Nguyễn Thị Thường. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam, có mặt.

2. Nguyễn Quốc C (Tên gọi khác: X), sinh năm 1998 tại tỉnh Bình Thuận. Hộ khẩu thường trú: Khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn P và bà Nguyễn Thị Thêu. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam, có mặt.

3. Nguyễn Đức Th (Tên gọi khác: S), sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Thuận. Hộ khẩu thường trú: Thôn 1, xã Sông Lũy, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Thuận và bà Phùng Thị Viễn; Vợ Nguyễn Phương Trâm và 01 con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh T sinh năm 1989; địa chỉ: Khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, Bình Thuận (có  mặt)

- Người có Q1 lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Lê Thị Thu Th1, sinh năm 1991; địa chỉ: Khu phố Lương Trung, thị trấn LS, huyện BB, Bình Thuận (vắng mặt)

+ Anh Nguyễn P, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, Bình Thuận. (có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

1. Nguyễn Trung T1, sinh năm 1987; (có mặt)

2. Lê Tấn Q1, sinh năm 1996; (có mặt)

3. Lương Văn Tr, sinh năm 1993; (có mặt)

4. Nguyễn Tr1 C1, sinh năm 1997; (vắng mặt)

5. Nguyễn Hoàng Anh Tr, sinh năm 2003. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ, ngày 10/5/2018, Lê Thanh Q cùng với Nguyễn Đức Tr1, Lê Tấn Q1 và Nguyên Trung T1 đến quán cà phê HX uống nước. Khi nhân viên nữ của quán tên Nguyễn Bảo Hân mang nước uống ra cho nhóm của Q thì Q nắm lấy tay của nhân viên này nên xảy ra cự cãi nhau và Hân bỏ vào quầy pha chế. Khoảng 15 phút sau, Đặng Thiện Ngh đi cùng 01 thanh niên (không rõ họ tên) đến bàn của nhóm Q đang ngồi đòi đánh Q1, Tiến Tr1 thì được Q can ngăn. Sau đó nhóm của Q tính tiền nước uống để đi về, khi đi xuống cầu thang thì Q gặp Nguyễn Thanh T đang đi lên, Q nói “Đ.M, mày tránh đường cho tao đi”, nghe vậy nên T tránh sang một bên cho nhóm của Q đi xuống. Sau đó, T đi lên uống cà phê cùng với Nguyễn Hữu Trìu, Nguyễn Tr1 C1 và Lương Văn Tr, là những người bạn ở xã Sông Bình, huyện Bắc Bình.

Sau khi rời khỏi quán cà phê HX, Q, Tr1, Q1, Tiến đi về nhà của Q. Tại đây, Q mượn điện thoại của Tr1 gọi cho Nguyễn Đức Th và nói Th cho gặp Nguyễn Quốc C, kể lại sự việc xảy ra tại quán cà phê HX và nhờ Cường kiếm giùm người để đánh lại. Nghe xong sự việc từ Q, Cường mượn xe mô tô của Th để về thì Th nói để Th chở về. Th dùng xe mô tô biển số 86B2-366.16 của Th chở Cường từ xã Hòa Thắng về nhà Q. Tại nhà Q, sau khi điện thoại cho C xong, Q rủ Tr1, Q1 và Tiến lên lại quán cà phê HX tìm Nghĩa và người thanh niên đi cùng để đánh lại nhưng Q1 và Tiến không đồng ý mà đi về nhà ngủ còn Tr1 đồng ý đi cùng Q. Q và Tr1, mỗi người mang theo 01 con dao tự tạo (mã tấu) quay lại quán HX tìm những người nói trên nhưng không thấy nên Tr1 dùng con dao tự tạo chém vào tấm biển hiệu “HX” làm hư hỏng, rồi Tr1 và Q về lại nhà Q.

Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Th chở Cường về đến nhà Q thì nhìn thấy Tr1 và Q đang cầm mã tấu ngồi chờ tại nơi để xe mô tô của Tr1, Th vừa dừng xe thì Cường hỏi Q có bị sao không, Q chưa trả lời thì Tr1 nói “Tụi nó còn trên quán, bây giờ lên quán tìm tụi nó đánh lại” và hỏi Cường “Có mã tấu không?”, Cường nói không có đồng thời đi về nhà gần đó lấy 01 cây rựa chiều dài 71cm, cán bằng gỗ dài 32cm, lưỡi bằng sắt dài 22cm, bản rộng 04cm cầm tới và ngồi lên xe của Th. Q điều khiển xe chở Tr1 mang theo 01 cây dao tự tạo của Tr1, 01 cây mã tấu của Q có đặc điểm lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 56cm, cán gỗ dài 22cm, vỏ bằng nhựa, quấn keo đen dài 56cm, Th chở C mang theo cây rựa chạy theo sau. Đến quán, Th và C đứng chờ ở trước quán, Q và Tr1 cầm mã tấu đi lên gác, nhìn thấy Nguyễn Thanh T đang cùng bạn đi đến cầu thang thì Q bảo bạn của T đi xuống trước và nói T đi xuống dưới nói chuyện. Tới trước cổng quán, Q hỏi T “tại sao lúc nãy chặn đường”, T nói “không có, tôi tránh đường cho đi mà, có hiểu lầm gì không” thì lập tức Q cầm mã tấu giơ lên chém T, T áp sát vào người Q nên Q không chém được, vừa lúc này Nguyễn Quốc C đứng ở phía sau, bên phải của Q, cầm rựa nhào tới chém ngang vào người T, T đưa tay trái lên đỡ thì trúng vào cẳng tay trái gây thương tích.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 257/2018/TgT ngày13/6/2018 của Trung T pháp y tỉnh  Bình Thuận, kết luận tỷ lệ thương tật của Nguyễn Thanh T là 12%, thương tật do vật sắt gây ra.

Về phần dân sự: Nguyễn Quốc C đã tác động cha là Nguyễn P bồi thường thương tích cho Nguyễn Thanh T với số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

Về tang, vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra thu giữ 01 (một) cây dao tự tạo có lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 56cm, cán gỗ dài 22cm, vỏ bằng nhựa, quấn băng keo đen dài 56cm và 01 (một) cây rựa dài 71cm, cán bằng gỗ tròn dài 32cm, đường kính 03cm, có bọc ống sắt màu đen gần lưỡi rựa, lưỡi bằng sắt dài 22cm, bản rộng 04cm

Tại Bản Cáo trạng số 71/CT-VKS.HBB, ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đã truy tố Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C và Nguyễn Đức Th về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Áp dụng:

+ Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Thanh Q từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc C từ 02(hai) năm đến 02 (hai) năm  06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Th từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Các bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C và Nguyễn Đức Th thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đã truy tố. Các bị cáo cho rằng việc truy tố các bị cáo là đúng, các bị cáo vô cùng ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Bị hại Nguyễn Thanh T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và không yêu cầu bồi thường về phần dân sự.

- Người có Q1 lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn P đồng ý cho bị cáo Nguyễn Quốc C số tiền 30.000.000 đồng để bồi thường cho anh Nguyễn Thanh T và không có yêu cầu bị cáo Cường phải trả lại số tiền này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q1, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C và Nguyễn Đức Th không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại vềhành vi, quyết  định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã làm rõ: Vào khoảng 20 giờ, ngày 10/5/2018, bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Đức Tr1, Lê Tấn Q1 và Nguyên Trung T1 đến quán cà phê HX uống nước. Tại đây bị cáo Q có nắm tay nữ nhân viên phục vụ của quán nên dẫn đến mâu thuẫn, Đặng Thiện Ngh cùng một thanh niên (không rõ họ tên) cầm mã tấu đến bàn của Q đòi đánh nhưng được can ngăn nên bị cáo Q, Tr1 cùng các bạn đi về. Khi bị cáo Q đi xuống cầu thang thì gặp anh Nguyễn Thanh T đang đi lên, bị cáo Q nạt nộ và anh T tránh đường cho nhóm của bị cáo Q đi xuống trước. Khi rời khỏi quán về đến nhà, bị cáo Q gọi điện thoại cho bị cáo Nguyễn Đức Th và bị cáo Nguyễn Quốc C kể lại sự việc và nhờ cùng nhau đi đánh lại. Sau khi đồng ý lời đề nghị của bị cáo Q, bị cáo Nguyễn Đức Th điều khiển xe mô tô biển số 86B2-366.16 chở bị cáo Nguyễn Quốc C từ xã Hòa Thắng về lại thị trấn LS để cùng bị cáo Q đến quán HX tìm người đánh trả thù giúp bị cáo Q. Trong thời gian bị cáo Th và bị cáo Cường đang trên đường về thị trấn LS thì bị cáo Q và Nguyễn Đức Tr1, mỗi người cầm 01 con dao tự tạo đến quán HX tìm Đặng Thiện Ngh, không thấy Ngh nên Tr1 dùng dao chém vào bảng hiệu “HX” gây hư hỏng, rồi Tr1 và bị cáo Q về lại nhà Q. Đến 21 giờ, ngày 10/5/2018, bị cáo Th chở bị cáo Cường về tới nhóm của bị cáo Q đang chờ, bị cáo C về nhà gần đó lấy 01 cây rựa dài 71cm, cán bằng gỗ dài 32cm, lưỡi bằng sắt dài 22cm, bản rộng 04cm cầm trên tay và các bị cáo đến lại quán cà phê HX. Khi đến trước quán, bị cáo Th và bị cáo C đứng ở cổng quán còn Tr1 và bị cáo Q lên gác quán tìm người. Không tìm thấy Ngh mà thấy anh Nguyễn Thanh T cùng các bạn đang đi xuống thì bị cáo Q nói anh T xuống dưới nói chuyện. Xuống đến cổng quán, bị cáo Q hỏi anh T tại sao lúc nãy chặn đường và giơ dao tự tạo lên chém anh T, anh T áp sát vào người bị cáo Q, bị cáo Q không chém được và lùi lại thì ngay lập tức bị cáo Nguyễn Quốc C đứng ở phía sau bị cáo Q cầm cây rựa chém ngang vào ngư ời anh T, anh T đưa tay trái ra đỡ thì bị trúng vào cẳng tay trái gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ Th là 12% ( tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 257/2018/TgT ngày 13/6/2018 của Trung T Pháp y tỉnh Bình Thuận).

[3] Diễn biến sự việc cho thấy, các bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C và Nguyễn Đức Th vì những lý do hết sức nhỏ nhặt nhưng do bản tính côn đồ mà sử dụng dao tự tạo, rựa sắc bén, là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh Nguyễn Thanh T với tỷ lệ tổn thương cơ Th là 12%. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt là “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, i khoản 1, định khung hình phạt tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[4] Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, việc gây thương tích cho ngư ời khác là hành vi vi phạm, nhưng do xem thường pháp luật và bản tính côn đồ nên đã thực hiện hành vi trái pháp luật này. Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm, thực hiện một cách quyết liệt, không những làm ảnh hưởng nghiệm Tr1 đến sức khỏe của người bị hại mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo một mức án nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo thành công dân tốt, đồng thời để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, trong đó bị cáo Lê Thanh Q, là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn Quốc C và bị cáo Nguyễn Đức Th cùng thực hiện tội phạm. Bị cáo Nguyễn Quốc C tiếp nhận ý chí của bị cáo Lê Thanh Q một cách tích cực, là người lấy cây rựa mang theo và trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích cho anh Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Đức Th là người giúp sức tích cực, chở bị cáo Nguyễn Quốc C đến nơi để bị cáo C gây thương tích cho người bị hại. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi của các bị cáo đã gây ra.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sẽ áp dụng khi lượng hình đối với các bị cáo. Đối với bị cáo Nguyễn Quốc C, sau khi gây thương tích cho bị hại đã tác động gia đình bồi thường số tiền 30.000.000 đồng nên sẽ được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại không có yêu cầu bồi thường dân sự, người liên quan không có yêu cầu gì khác nên không Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

[9] Về tang, vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây dao tự tạo có lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 56cm, cán gỗ dài 22cm, vỏ bằng nhựa, quấn băng keo đen dài 56cm và 01 (một) cây rựa dài 71cm, cán bằng gỗ tròn dài 32cm, đường kính 03cm, có bọc ống sắt màu đen gần lưỡi rựa, lưỡi bằng sắt dài 22cm, bản rộng 04cm, là các hung khí đã gây thương tích cho anh Nguyễn Thanh T.

[10] Đối với hành vi của Nguyễn Đức Tr1, do Cơ quan điều tra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ để xác định là đồng phạm với các bị cáo trên nên quyết định tách vụ án để điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[11] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C và Nguyễn Đức Th cùng phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thanh Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 24-9-2018.

Áp dụng: Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc C 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 24-9-2018.

Áp dụng: Điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Th 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây dao tự tạo có lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 56cm, cán gỗ dài 22cm, vỏ bằng nhựa, quấn băng keo đen dài 56cm và 01 (một) cây rựa dài 71cm, cán bằng gỗ tròn dài 32cm, đường kính 03cm, có bọc ống sắt màu đen gần lưỡi rựa, lưỡi bằng sắt dài 22cm, bản rộng 04cm.

(Tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra với Chi cục thi hành án dân sự ngày 20/11/2018)

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc các bị cáo Lê Thanh Q, Nguyễn Quốc C, Nguyễn Đức Th, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, bị hại, người có Q1 lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được Q1 kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15-01- 2019). Người có Q1 lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được Q1 kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

691
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về