Bản án 03/2018/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 16/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 254/2017/TLST-HS ngày 06/12/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử xố: 01/2018/QĐXXST-HS ngày 02/01/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H; Giới tính: Nam; sinh năm 1965 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: Quang Trung, phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 02/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị L; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: 05,

-(1) Tại bản án số: 246/HSST ngày 23/10/1996 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 15 tháng tù treo của tội “cố ý gây thương tích” chuyển thành tù giam tại bản án số 87/HSST ngày 14/5/1996 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp buộc bị cáo pH chấp hành hình phạt chung là 30 tháng tù

-(2) Tại bản án số: 470/HSST ngày 27/12/2000 Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

-(3) Tại bản án số: 194/HSST ngày 14/12/2005 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- (4) Tại bản án số: 61/HSST ngày 10/4/2009 Tòa án nhân dân Quận 12 xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

-(5) Tại bản án số: 34/HSST ngày 15/4/2013 Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị bắt, tạm giam ngày27/7/2017. (có mặt).

Bị hại: Ông Phan Đặng Hoài Q, trú tại: An Nhơn, phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Văn H, trú tại: Nguyễn Trọng Tuyển, phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 27/7/2017, H điều khiển xe mô tô biển số 51P5 – 9272 chạy trên đường Thống Nhất. Khi đến trước đường Thống Nhất, phường 15, quận Gò Vấp thì nhìn thấy anh Phan Đặng Hoài Q đang nằm ngủ trong nhà, trên bàn gần chỗ anh Q có để một chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V5, trong nhà không có người, H liền dừng xe đi đến lấy trộm chiếc điện thoại thì bị anh Nguyễn Đức H là thợ sửa xe đối diện nhà anh Q nhìn thấy liền tri hô cùng với những người xung quanh bắt giữ H cùng vật chứng giao công an phường 15 quận Gò Vấp lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V5; 01 chiếc xe gắn máy biển số 59P5-9272.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 163/KL ngày 03/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố Tụng UBND quận Gò Vấp kết luận: chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V5, hàng chính hãng đã qua sử dụng, theo giá thị trường ngày 27/7/2017 là 2.500.000 đồng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Quí.

Đối với chiếc xe máy biển số 59P5-9272 có số máy 1P50FMG-10562922, số khung PCG0011S-241571 qua xác minh do anh Bùi Văn H sinh năm 1958, ngụ N, phường 2, quận Bình Thạnh đứng tên chủ quyền. Xác minh tại địa phương anh H không có mặt tại nơi cư ngụ nên Cơ quan điều tra chưa thu thập được lời khai. H khai mua chiếc xe trên của đối tượng Nguyễn Văn N (không rõ lai lịch) với giá 3.900.000 làm phương tiện đi lại. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe trên nhưng đến nay vẫn chưa có người đến nhận xe.

Tại bản cáo trạng số 02/Ctr-VKS ngày 30/11/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử

- Xử phạt bị cáo H từ 03 năm đến 04 năm tù.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc xe máy biển số 59P5-9272 có số máy 1P50FMG-10562922, số khung PCG0011S-241571.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo H đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2]Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo H phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự.

[3[Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của những người bị hại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không pH thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V5 được định giá là 2.500.000 đồng, mặt khác bị cáo có nhiều tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, bên cạnh đó bị cáo phạm tội liên tục có 5 tiền án về cùng 01 hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích vừa ra tù lại tiếp tục phạm tội trộm cắp chứng tỏ bị cáo không có nghề nghiệp. Thực hiện hành vi trộm cắp tài tài sản của người khác làm nguồn sống chính cho bản thân thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4]Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay người bị hại vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện ông Quí đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

[6]Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe máy biển số 59P5-9272 có số máy 1P50FMG-10562922, số khung PCG0011S-241571 là vật chứng vụ án bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, qua xác minh do anh Bùi Văn H đứng tên chủ quyền. Xác minh tại địa phương anh H không có mặt tại nơi cư ngụ nên Cơ quan điều tra chưa thu thập được lời khai. H khai mua chiếc xe trên của đối tượng Nguyễn Văn N (không rõ lai lịch) làm phương tiện đi lại, Hội đồng xét xử xét thấy chiếc xe trên có nguồn gốc rõ ràng, nhưng việc mua bán chiếc xe trên qua nhiều người không hợp lệ, đồng thời đây là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc xe gắn máy trên.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo H 04(bốn) năm tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày 27/7/2017.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc xe máy biển số 59P5-9272 có số máy 1P50FMG-10562922, số khung PCG0011S-241571 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 559/PNK ngày 10/8/2017).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về