Bản án 02/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 10/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 163/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế V, sinh năm 1990, tại Điện Biên; nơi ĐKNKTT: Đội 5, xã TX, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Tổ 9, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D và bà Cầm Thị B; vợ: Lò Thị O, sinh năm 1991và có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1961.

2/ Bà Cầm Thị B, sinh năm 1964.

Cùng địa chỉ: Đội 5, xã TX, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.

- Đại diện theo ủy quyền của bà Cầm Thị B: Chị Lò Thị O, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Tổ 9, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam.

Ông D, bà B và chị O đều vắng mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1992. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ ngày 21/10/2019, Nguyễn Thế V điều khiển xe mô tô BKS 27N1-037.78 đi từ tổ 9, phường LHP, thành phố PL đến tổ dân phố Hồng Phú, phường Châu Sơn tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây V gặp bạn nghiện mới quen tên là Anh, khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) và hỏi: “Mày có biết chỗ lấy hàng chơi” thì Anh nói: “Mày có bao nhiêu tiền góp cùng tao mua hàng chơi”. V đưa cho Anh 240.000đ. Anh cầm tiền rồi nói: “Mày ở đây đợi tao, để tao đi lấy về chơi”. Anh điều khiển xe mô tô đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho V 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu xanh và nói: “Cầm lấy hàng cẩn thận để anh mua coóng về chơi”, V biết đó là gói ma túy nên cầm ở tay phải đứng chờ Anh đi mua coóng về sử dụng thì tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang. V tự giác giao nộp cho lực lượng công an 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu xanh, bên trong túi chứa chất tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy đá cất giữ mục đích để sử dụng.

- Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu xanh, bên trong túi chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động Huawei vỏ màu xanh màn hình cảm ứng; 01 giấy chứng minh nhân dân số 040388101 và 01 giấy phép lái xe số AT 381016 đều mang tên Nguyễn Thế V;

01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 27N1-037.78 mang tên Cầm Thị B; 01 xe mô tô tay ga màu vàng - đen BKS 27N1- 037.78 và 01 ví giả da màu đen.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thế V tại tổ 9, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 182/PC09-MT ngày 24/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “M u tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,249g, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS-PL ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Thế V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Thế V theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thế V mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine hoàn trả sau giám định cùng bao gói; trả lại Nguyễn Thế V 01 điện thoại di động Huawei vỏ màu xanh màn hình cảm ứng; 01 giấy chứng minh nhân dân số 040388101 và 01 giấy phép lái xe số AT 381016 đều mang tên Nguyễn Thế V và 01 ví giả da màu đen.

Bị cáo Nguyễn Thế V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo không tranh luận, không bào chữa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử v n tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Ti phiên toà bị cáo Nguyễn Thế V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 21/10/2019, tại tổ dân phố Trần Phú, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Thế V đang cất giữ trái phép 0,249 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế V đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Đánh giá về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo mà còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Phủ Lý, đồng thời là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của Nguyễn Thế V cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Thế V; 01 ví giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh màn hình cảm ứng là tài sản của Nguyễn Thế V không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế V.

- Đối với 01 xe mô tô tay ga màu vàng - đen BKS 27N1-037.78 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Cầm Thị B. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của bà Cầm Thị B và ông Nguyễn Văn D (là bố mẹ bị cáo V). Bà B và ông D cho V mượn xe làm phương tiện đi lại, song không biết V sử dụng xe đi mua trái phép chất ma túy để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại xe và giấy tờ liên quan cho chủ sở hữu là phù hợp pháp luật.

[7] Đánh giá các tình tiết khác của vụ án:

Đi với người góp tiền cùng mua ma túy với Nguyễn Thế V. V khai là bạn nghiện mới quen tên Anh, khoảng 30 tuổi gặp ở tổ dân phố Trần Phú, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã tiến hành các biện pháp xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này, ngoài lời khai của Nguyễn Thế V không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh, do vậy không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế V 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2019.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong số: 182/PC09-MT mặt trước phong bì ghi m u vật hoàn trả QT01 tại mép dán mặt sau có hai chữ ký và hai dòng chữ ghi: Nguyễn Thị Lan Hương, Lưu Thị Ngọc Ánh, một chữ ký đóng dấu chức danh trưởng phòng Thượng tá Nguyễn Đại Hữu và ba dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Trả lại Nguyễn Thế V 01 giấy chứng minh nhân dân số: 040388101 và 01 (một) giấy phép lái xe số: AT381016 đều mang tên Nguyễn Thế V; 01 (một) ví giả da màu đen (đã cũ); 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei vỏ màu xanh (đã cũ) màn hình cảm ứng, có số IMEI1: 868735033499239; IMEI2: 8687735033529241.

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 16/12/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý)

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Thế V phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thc hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về