Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:127/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Dương Văn T (tên thường gọi là Q); Sinh ngày: 11/5/1991; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 140/5A đường PVK, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn B và bà: Trần Thị Ngọc L; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 19/9/2018.

Nhân thân: - Ngày 20/5/2008, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản» (Bản án số: 406/2008/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/02/2010 (Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số: 205/GCN của Trại giam Tống Lê Chân).

- Ngày 14/3/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ (Quyết định số: 26/QĐ-UBND). Chánh hành xong ngày 21/01/2015 (Giấy chứng nhận chấp hành xong thời hạn đưa vào Cơ sở giáo dục số: 23/GCN-PH(HS) của Cơ sở giáo dục BB Phú Hòa). (có mặt)

- Bị hại:

Ông Vũ Hoàng D; Sinh năm: 1999; Trú tại: 33C đường THĐ, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.(vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Hộ kinh doanh QTT; Địa chỉ: 55D đường MP, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người đại diện Hộ kinh doanh: Ông Quang Thành T; Sinh năm: 1978; Trú tại: 55D đường MP, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 03 giờ 25 phút ngày 15/9/2018, Dương Văn T đến tiệm Internet 80 (địa chỉ 80 đường ĐNC, Phường M, Quận F) chơi. Khi vào trong tiệm, T thấy có01 điện thoại di động màu đen của ông Vũ Hoàng D đang để sạc pin trên bàn máy vi tính (ngay cửa ra vào), nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định, T dùng tay rút dây sạc pin ra lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi về nhà. Do điện thoại có khóa mật khẩu, nên T đem đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại AT (số 55D đường MP, Phường E, Quận F) nhờ mở khóa và được quản lý cửa hàng hẹn ngày 17/9/2018 đến lấy.

Về phần ông Vũ Hoàng D, sau khi phát hiện thấy mất chiếc điện thoại đã kiểm tra Camera ghi hình thì phát hiện T chính là người đã lấy trộm chiếc điện thoại. Đến 10 giờ ngày 19/9/2018, ông D phát hiện T đang đi bộ đến trước nhà số 105 đường BH, Phường M, Quận F, nên báo Công an Phường M, Quận 6 đưa T về trụ sở Công an phường làm rõ và qua đấu tranh, T khai nhận đã thực hiện hành vi nêu trên.

Bị hại và người làm chứng khai cũng tương tự.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã thu hồi chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5 Pro Ram 3G màu đen trả cho ông Vũ Hoàng D.

Tại Văn bản số: 1510/TCKH ngày 20 tháng 9 năm 2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 thống nhất giá như sau: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5 Pro Ram 3G, màu sơn đen nhám 32Gb, Imei:80490, có giá là: 3.200.000 đồng.

Đối với ông Quang Thành T, là người có hành vi nhận chiếc điện thoại từ Dương Văn T để mở khóa mật khẩu, nhưng không biết rõ đó là tài sản do phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại Cáo trạng số: 04/CT-VKS-Q6 ngày 21 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Dương Văn T về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động cảm ứng màu đen (bị cáo không biết hiệu) của ông Vũ Hoàng D đang để sạc pin tại tiệm Internet 80 - số 80 đường ĐNC, Phường M, Quận F vào lúc 03 giờ 25 phút ngày 15/9/2018 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Dương Văn T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Dương Văn T từ 01 năm đến 02 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại không yêu cầu, nên không đề nghị giải quyết. 

Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý

Lời nói sau cùng, bị cáo Dương Văn T nhận thức được hành vi của bị cáolà sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Dương Văn T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản ghi nhận hình ảnh qua Camera ngày 22/9/2018 của Công an Quận 6; Biên bản thu giữ vật chứng ngày 19/9/2018 của Công an Phường E, Quận 6; lời khai của bị hại Vũ Hoàng D; của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Quang Thành T và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Văn T đã lợi dụng sự sơ hở của ông Vũ Hoàng D, lén lút chiếm đoạt của ông D 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5 (Pro Ram 3G, màu đen nhám 32Gb, Imei: 80490) trị giá 3.200.000 đồng, là phạm tội «Trộm cắp tài sản». Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Dương Văn T không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo Dương Văn T có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng do tham lam, lười lao động, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bị cáo Dương Văn T có nhân thân xấu, đó là ngày 20/5/2008, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản»; ngày 14/3/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ. Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Dương Văn T tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, việc bị cáo bị phát hiện bắt giữ là hoàn toàn ngoài ý muốn của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương đối dài mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản đã được thu hồi trả bị hại); tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì bị cáo Dương Văn T còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc bồi thường thiệt hại: Ông Vũ Hoàng D và ông Quang Thành T (đại diện Hộ kinh doanh QTT) không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Việc xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã xử lý trả 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5 Pro Ram 3G, màu sơn đen nhám 32Gb, Imei: 80490 và 01 USB (có dữ liệu ghi lại hình ảnh Dương Văn T thực hiện hành vi lấy trộm tài sản tại tiệm Internet 80 - số 80 đường ĐNC, Phường M, Quận F vào khuya ngày 15/9/2018) cho ông Vũ Hoàng D (theo Biên bản về việc trả lại vật, tài liệu ngày 27/9/2018 - BL45), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

 [8] Đối với ông Quang Thành T, Viện kiểm sát xác định ông T không biết rõ chiếc điện thoại mà ông nhận mở khóa mật khẩu cho bị cáo Dương Văn T là tài sản do phạm tội mà có, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Bị cáo Dương Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Dương Văn T (Q) phạm tội: «Trộm cắp tài sản».

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Dương Văn T (Q) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2018.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Dương Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Dương Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về