Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 17/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, xét xử công khai vụ án thụ lý số 1418/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông M H Th, sinh năm 1975; địa chỉ: Số 2C/3A, Khu phố B, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, có mặt.

Bị đơn: Bà Ph Th D, sinh năm 1974; địa chỉ: Số 2C/3A, Khu phố B, phường B, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn ông Mai Hoàng Thanh trình bày:

Ông M H Th và bà Ph Th D tự nguyện tìm hiểu, sau đó tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 106/2009; Quyển số 01 ngày 31/8/2009. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hay cãi nhau, bà D còn mang cả giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của con, hộ khẩu gia đình đi cầm để lấy tiền và ông là người đi chuộc lại.

Do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, ông không còn yêu thương vợ; vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 7 tháng nay. Thời gian sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau nữa. Trước đây ông có làm đơn xin ly hôn 01 lần tại Tòa án, nhưng sau đó rút đơn để vợ chồng trở về đoàn tụ, nhưng không thành.

Bà D cho rằng ông có quan hệ tình cảm nam nữ với người phụ nữ khác là không đúng sự thật. Trường hợp Tòa án không cho ông ly hôn thì ông cũng cương quyết không trở về đoàn tụ với bà D.

Do, tình cảm vợ chồng không còn nên ông Th yêu cầu Toà án cho ông ly hôn với bà D.

Về con chung: Có 01 con chung tên M T T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 2005. Khi ly hôn ông Th yêu cầu giao con chung cho ông trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông M H Th không yêu cầu bà Ph Th D phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn bà Ph Th D trình bày: Bà D thống nhất lời trình bày của ông Th về quan hệ hôn nhân.

Riêng về mâu thuẫn vợ chồng như ông Th trình bày là không đúng. Nguyên nhân vợ chồng sống ly thân là do ông Th có quan hệ với người phụ nữ khác nên bà mới sống ly thân với ông Th được khoảng 7 tháng nay. Bà thừa nhận có mang giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của con, hộ khẩu gia đình đi cầm để lấy tiền trả cho người mà bà đã ký hợp đồng xuất khẩu lao động ra nước ngoài, nhưng do bà không đi nên người ta đòi tiền công. Do đó, bà mới mang giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của con, hộ khẩu gia đình đi cầm để lấy tiền trả cho họ.

Thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau nữa. Tuy nhiên, do con còn nhỏ nên bà D yêu cầu vợ chồng vẫn sống ly thân như thời gian vừa rồi và không đồng ý ly hôn để tránh ảnh hưởng đến tâm lý của con.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên M T T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 2005. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Th về việc ly hôn thì bà đồng ý giao con chung cho ông Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Ph Th D không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Th khởi kiện bà D yêu cầu ly hôn, bà D hiện đang thường trú tại địa chỉ: Số 2C/3A, Khu phố B, phường H, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thị xã Thuận An thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn bà Ph Th D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Ông M H Th và bà Ph Th D tự nguyện tìm hiểu chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 106/2009; Quyển số 01 ngày 31 tháng 8 năm 2009, là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông Th xác định vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau; ông không còn yêu thương vợ nữa; vợ chồng đã sống ly thân được 07 tháng nay. Thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau nữa. Do đó, ông Th yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà Duyên.

Bà D cho rằng mâu thuẫn vợ chồng có xảy ra, nhưng do ông Th có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên bà sống ly thân với ông Th được 07 tháng nay. Qúa trình sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau nữa. Tuy nhiên, bà D yêu cầu vợ chồng tiếp tục sống ly thân và không đồng ý ly hôn vì ảnh hưởng đến tâm lý con chung.

Xét thấy, quá trình tố tụng Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ, nhưng ông Th cương quyết yêu cầu ly hôn với bà D và hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau nữa. Mặt khác, bà D không đồng ý ly hôn, nhưng lại có nguyện vọng tiếp tục sống ly thân với chồng; trước đây ông Th đã làm đơn xin ly hôn tại Tòa án, nhưng sau đó ông Th rút đơn để vợ chồng trở về đoàn tụ, nhưng bà D cương quyết không về. Do đó, xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông Th về việc ly hôn với bà D.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên M T T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 2005. Ông Th yêu cầu giao con chung cho ông trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Xét thấy, quá trình tố tụng ông Th yêu cầu giải quyết về con chung thì được bà D đồng ý. Mặt khác, tại bản tự khai ngày 26 tháng 12 năm 2018 cháu T cũng có nguyện vọng muốn sống với ông Th. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Th.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Th không yêu cầu bà D phải cấp dưỡng nuôi con. Xét, đây là sự tự nguyện của ông Th nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông M H Th với bị đơn bà Ph Th D về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông M H Th được ly hôn với bà Ph Th D.

- Về con chung: Giao cháu M T T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 2005 cho ông M H Th được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của ông M H Th về việc không yêu cầu bà Ph Th D phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Ông M H Th phải nộp 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0024695 ngày 20 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2019/HNGĐ-ST ngày 17/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về