Bản án 01/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyệnĐ, tỉnh Kon Tum xétxử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2020/HSST ngày 18/12/2020, theoQuyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/HSST-QĐ ngày 31/12/2020, đối với bị cáo: Tô Hữu Q, tên gọi khác: Bo, sinh năm: 1978 tại Gia Lai; Nơi cưtrú:18/16 Tuệ Tĩnh, phường I, Thành Phố P, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;Con ông: Tô Hữu Tvà bà Lê Thị Bích L; Vợ là Lê Thị Minh N (đã ly hôn); Có 01con sinh năm 2003. Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án hình sự sơ thẩm số 27, ngày 28/02/2013 của Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Kon Tum tuyên phạt 03 (ba) năm tù đối với bị cáo). Đến thời điểm phạm tội, bị cáo chưa chấp hành xong việc bồi thường dân sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/10/2020 và bị tạm giam từ ngày 07/10/2020 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ. Có mặt.

- Bị hại: Hồ Thị Như H – Sinh năm 1993, Địa chỉ: Thôn 4, xã TC, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 02/10/2020, bị cáo Tô Hữu Q đi từ Ngọc Hồi đến ĐăkTô ghé vào quán cà phê Như H tại thôn 4, xã TC, huyện Đ để uống nước. Bị cáo có gọi vài lần nhưng không thấy ai ra bán nước. Lúc này, bị cáo phát hiện chiếc xe mô tô biển kiểm soát 82U1- 001.15, nhãn hiệu HONDA AIRBLADE màu xanh bạc, đen của chị Hồ Thị Như H và thấy chìa khóa xe để trên tủ kính trước cửa nhà nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Khoảng 12 giờ 30 phút Quyến lén lút lấy chìa khóa mở khóa điện của xe rồi điều khiển chạy về hướng thị trấn Đ theo đường Hồ Chí Minh. Lúc này chị H nghe thấy tiếng xe nổ máy nên chạy ra ngoài thì phát hiện xe không còn trong sân. Chị H chạy ra đường thấy một người đang điều khiển xe mình theo hướng đi huyệnĐ nên đuổi theo và báo cho Công an xã TC. Tới khoảng 12 giờ 37 phút lực lượng chức năng bắt quả tang cả người lẫn tang vật khi bị cáo đang tiến hành tháo gương xe tại khối 7, thị trấn Đ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 27/KL-ĐGTS ngày 05/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định giá trị tài sản bị trộm cắp là 29.800.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 17/12/2020, Viện kiểm sát nhân dânhuyệnĐ truy tố bị cáo Tô Hữu Q về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tạikhoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 Áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luậthình sự vì bịcáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt.

Áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, vì bị cáo đã có 01 tiền án về tội: “Cướp giật tài sản”, đến thời điểm phạm tội, chưa chấp hành xong việc bồi thường dân sự, chưa được xóa án tích.

Xử phạt bị cáo Tô Hữu Q từ 14 tháng đến 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì nênkhông xem xét.

Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát: Việc xác định bị cáo chưa được xóa án tích là có phần thiệt thòi cho bị cáo vì bị cáo vẫn có ý thức nộp tiền bồi thường nhưng không có cơ quan nào thông báo cho bị cáo phải nộp. Bị cáo là lao động chính trong gia đình nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Đại diện Viện kiểm sát không chấp nhận ý kiến tranh luận của bị cáo vì bản án năm 2013 đã tuyên rõ ràng về phần bồi thường, bị cáo không nộp tiền bồi thường là lỗi của bị cáo. Bị cáo không phải là lao động chính vì bị cáo sống một mình, vợ đã ly hôn, con đã kết hôn.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin lỗi người bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranhtụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều traviên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đãthực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Tô Hữu Qđã khai nhận toàn bộ hànhvi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụán và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, có đủ căn cứ để xác định:Bị cáo Tô Hữu Qđã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý lỏng lẻo tài sản của chủ sở hữu tài sản. Đã trộm cắp tài sản của chịHồ Thị Như H. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã trộm cắp là 29.800.000 đồng

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân,nhưng lại xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản củangười khác một cách trái pháp luật, thể hiện sự coi thường pháp luật, làm chotrật tự an toàn xã hội tại địa phương trở nên phức tạp. Bị cáo là người có sức khỏe muốncó tiền tiêu xài nhưng lười lao động, bị cáo đã có 01 tiền án với 8 lần cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích mà còntái phạm, không có nghề nghiệp ổn định đã qua thời gian cải tạo nhưng không chịutu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

Xét thấy, cầnthiết phải ấn định mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tộimà bị cáo gây ra, có như vậy mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừachung trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ănnăn hối cải về hành vi của mình nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáothấy được chính sách nhân đạo của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành người côngdân có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồ Thị Như Hđã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

[6] Về vật chứng:

Cơ quan điều trađã trả lại cho chị Hồ Thị Như H: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: AIRBLADE, màu xanh bạc đen mang biển kiểm soát 82U1-001.15; 01 (Một) chiếc ví da màu đen bên trong có các giấy tờ bao gồm:

01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô - xe máy tất cả đều mang tên Hồ Thị Như Hlà đúng quy định của pháp luật.

Đối với vật chứng là:01 (một) điện thoại Sam Sung màu vàng đồng và 01 (một) điện thoại Nokialà tài sản riêng của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo Tô Hữu Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy địnhcủa pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017; Tuyên bố bị cáo Tô Hữu Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Tô Hữu Q20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (02/10/2020).

Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Trả lại cho bị cáo:

- 01 (Một) điện thoại Sam Sung màu vàng đồng có số IMEI 1: 358206086582211; số IMEI 2: 358207086582219, tên thiết bị: Galaxy J2 Prime, máy bị bể màn hình, bên trong có 01 thẻ nhớ 16GB, 01 sim viettel in dãy số 8984048000072561034 và 01 sim viettel in dãy số 8984048000015124578, điện thoại đã qua sử dụng, nhiều vết trầy xước ngoài vỏ máy.

- 01 (Một) điện thoại Nokia có số IMEI: 357328089286938, CODE059Z166, điện thoại đã qua sử dụng, nhiều vết trầy xước ngoài thân vỏ máy, bên trong điện thoại có 01 sim vieettel in dãy số: 8984048000310113132 .

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đngày 21/12/2020).

Về án phí:Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo Tô Hữu Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngàytuyên án (14/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về