Bản án 01/2018/HS-ST ngày 10/12/2018 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 10/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
 

Ngày 10 tháng 12 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 217/2018/TLST-HS ngày 26/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2018/QĐXXST-HS ngày 19/11/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2018/HSST-QĐ ngày 23/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2018/HSST-QĐ ngày 26/11/2018 đối với các bị cáo:

1./ Vũ Mạnh Đ; sinh ngày 09/01/1985 tại Tp Hải Phòng; Nơi cư trú: thôn An Biên 2, xã L, huyện H, Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Đức H1(đã chết) và bà: Vũ Thị H2; Có vợ Nguyễn Thị M và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/6/2013, TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, thời gian thử thách 36 tháng; Bị bắt giam ngày 27/4/2018; Có mặt.

2./ Trần Thế A, sinh ngày 26/8/1994 tại T; Nơi cư trú: thôn Thanh Đình, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn Q và bà: Nguyễn Thị H3; Chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 05/02/2015, TAND huyện TG, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 27/4/2018; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Thế A: ông Nguyễn Văn D và ông Phạm Quốc B, luật sư Công ty Luật TNHH MTV Long Hà, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Quang P, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: thôn Đìa Mối, phường A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở: số 6, tổ 4, khu 7, phường B, Tp H, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

- Người làm chứng: chị Vũ Thanh H4, sinh năm 1990. Nơi ĐKHKTT: thôn Đìa Mối, phường A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở: số 6, tổ 4, khu 7, phường B, Tp H, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4 năm 2018 do thiếu tiền trả nợ Ngân hàng và sẵn có chìa khóa dự phòng xe ôtô đã lấy được khi dọn cửa hàng điện thoại của anh Phạm Quang P, Vũ Mạnh Đ nảy sinh ý định trộm cắp xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng, BKS 14A-112.86 của anh P. Sau khi tìm hiểu trang Zalo “Vua xe giá rẻ” của Trần Thế A, ngày 20/4/2018 Đ dùng Zalo “HoangManhDuc” nhắn tin, gọi điện thoại trao đổi với Thế A giới thiệu có xe ôtô như trên, do cầm cố, không giấy tờ muốn bán 70.000.000đồng. Thế A đồng ý, yêu cầu Đ chụp và gửi ảnh xe ôtô cho Thế A xem. Ngày 21/4/2018 Đ một mình đi xe Bus từ nhà đến nơi anh P đỗ xe (tổ 1, khu 7, phường B, Tp H) dùng điện thoại chụp ảnh gửi Zalo cho Thế A. Sau khi nhận được hình ảnh xe ôtô, Thế A đăng bài, ảnh xe trên mạng xã hội Facebook rao bán 135.000.000đồng để kiếm lời; khoảng 16giờ cùng ngày, có khách hỏi mua xe, Thế A gọi điện, Đ đồng ý hẹn xem xe ở khu vực cổng chào khu du lịch Tuần Châu, Tp H; khoảng 18giờ Đ từ nhà đến nơi anh P thường đỗ xe nhưng không thấy xe ở đó nên Đ quay về. Khoảng 20giờ cùng ngày, Thế A từ Thanh Hóa ra đến điểm hẹn gọi điện cho Đ để xem xe, do chưa lấy trộm được xe nên Đ hẹn với Thế A xem xe vào sáng ngày 22/4/2018. Thế A chờ đến cuối ngày 22/4/2018 không thấy Đ mang xe đến nên quay về Thanh Hóa. Ngày 24/4/2018, Đ nhắn tin lại cho Thế A hỏi còn muốn mua xe không, Thế A yêu cầu Đ gửi một đoạn video quay lại nội thất bên trong xe ôtô để làm tin. Đ đã quay một đoạn video ngắn gửi cho Thế A, Thế A nhận được hẹn liên lạc với Đ sau.

Khoảng 10giờ 30phút ngày 25/4/2018, Đ từ nhà mang theo chìa khóa ôtô đến nơi xe anh P đỗ tại tổ 1, khu 7, phường B, quan sát không thấy ai, Đ dùng chìa khóa mở cửa, nổ máy và điều khiển xe đi Hải Phòng theo hướng Quốc lộ 10. Trên đường đi, Đ gọi điện hẹn Thế A ra Hải Phòng để giao dịch mua bán. Thế A trả lời bận việc chiều tối mới đến, Đ đã điều khiển ôtô vào một ngõ nhỏ tại khu vực ngã tư Quán Toan, huyện T, thành phố Hải Phòng khóa xe để lại đó rồi đón xe khách về Quảng Ninh. Đến khoảng 18giờ cùng ngày, Đ đi xe khách quay lại vị trí để xe gặp Thế A từ Thanh Hóa ra để thỏa thuận mua bán. Khi gặp nhau, Thế A nói không có tiền trả ngay, đang hẹn bán cho một khách hàng khác, họ đến mua Thế A sẽ thanh toán tiền cho Đ. Trong khi ngồi giao dịch cùng Đ, Thế A vẫn nhắn tin với những khách hàng để hẹn đến xem, mua bán xe, trong đó có A Đặng Thanh T, trú tại số 12/24 đường Chùa Thông, phường S, thị xã S1, thành phố Hà Nội có tài khoản Zalo là “T Híp”.

Sau khi bị mất xe, anh Phạm Quang P đã đăng hình ảnh, thông tin mất xe ôtô lên mạng xã hội Facebook để mọi người chia sẻ tìm kiếm giúp.

Khi Đặng Thanh T đăng nhập Facebook thấy chủ sở hữu đăng báo mất trộm xe ôtô cùng đời, chủng loại, màu sắc giống với chiếc xe mà Thế A rao bán cho mình nên T đã chụp ảnh màn hình bài viết rồi gửi hình ảnh, nhắn tin cho Thế A từ chối không mua xe do liên quan đến Công an. Khi nhận được tin nhắn của T, Thế A đề nghị T tháo toàn bộ biển ra làm bộ khác đi đường, Thế A đã biết xe ôtô Đ bán là phạm tội mà có đồng thời hỏi lại Đ có phải xe trộm cắp không nhưng vì hám lợi vẫn tiếp tục giao dịch với Đ và nhắn tin hẹn khách hàng khác để rao bán xe. Đến khoảng 19giờ 30phút cùng ngày, Đ lái xe chở Thế A đi theo quốc lộ 10 về hướng đường cao tốc Hải Phòng - Hà Nội để chờ khách của Thế A đến xem xe. Trên đường đi, gặp Cảnh sát giao thông ra tín hiệu dừng xe nhưng do sợ phát hiện xe trộm cắp Đ điều khiển xe quay đầu bỏ chạy đến khu vực cây xăng Núi Voi, thuộc xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng thì dừng lại. Trên đường đi, Thế A mở cốp xe thấy có giấy tờ gồm: 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc, 01 bản phôtô giấy chứng nhận bảo hiểm thiệt hại vật chất và 01 giấy biên nhận thế chấp đều của xe ô tô BKS 14A-112.86 chủ xe Phạm Quang P. Thế A tự cầm toàn bộ giấy tờ trên mục đích để giao dịch mua bán xe với khách. Sau đó, cả hai xuống xe, Đ khóa cửa cầm chìa khóa ôtô đi về nhà, còn Thế A vẫn ở lại Hải Phòng để đợi khách xuống giao dịch mua bán.

Chiều ngày 26/4/2018, Thế A gọi điện cho Đ bảo mang chìa khóa xe sang bán xe cho khách, do sợ bị phát hiện nên Đ không đến và thông báo với Thế A về bài Facebook đăng tin mất xe ôtô của Phạm Quang P đã có nhiều người biết. Thế A yêu cầu Đ đưa tài khoản Facebook đó cho Thế A xem, Đ gửi tài khoản “Thu M” (của vợ Đ) để Thế A đăng nhập, vào mục “Bạn bè gần đây” và thấy anh P ở gần, cùng lúc đó Thế A thúc giục và chờ Đ mang chìa khóa xe ôtô sang Hải Phòng để nhanh chóng bán xe đồng thời giữ liên lạc với khách hỏi mua xe là A Đặng Anh P1, trú tại số 20, ngõ 267/2, phường G, quận B, Hà Nội để bán xe. Khoảng 22giờ cùng ngày, Đặng Anh P1 cùng Hoàng Dương Việt Tr, Bùi Thanh H1 đi từ Hà Nội bằng xe ôtô Kia Carens màu xám BKS 29A-394.52 đến Hải Phòng để gặp Thế A. Quá trình xem xe, Thế A không nói tên thật của mình mà xưng tên là “C” nhằm mục đích tránh bị phát hiện sau này, đến khoảng 23giờ 15phút cùng ngày, khi Thế A đang cùng nhóm anh Đặng Anh P1, Bùi Thanh H1 và Hoàng Dương Việt Tr xem xe ôtô BKS 14A-112.86 tại khu vực cây xăng Núi Voi thì bị Công an huyện A phát hiện thu giữ xe ô tô và đưa trụ sở làm việc, sau đó bàn giao cho Công an thành phố H giải quyết. Ngày 27/4/2018, Vũ Mạnh Đ và Trần Thế A bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Vật chứng thu giữ: - 01 ôtô nhãn hiệu Kia Carens màu xám BKS 29A-394.52; 01 ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng, BKS 14A-112.86; 02 BKS xe ôtô 30A- 367.89; 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số 018334; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 0701459; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc số 70104781, 01 phôtô giấy chứng nhận bảo hiểm thiệt hại vật chất xe ôtô không kinh doA vận tải số 0036653; 01 giấy biên nhận thế chấp số 0026/BĐ-VIB42/164/VIB tất cả đều của xe ô tô BKS 14A-112.86 chủ xe là Phạm Quang P; Thu của Vũ Mạnh Đ: 01 chìa khóa ôtô dài khoảng 05cm, có biểu tượng logo Hyundai, tay cầm màu đen; 01 điện thoại IPhone6 Plus màu vàng số Imei 355877063714721; - Thu của Trần Thế A: 01 điện thoại màn hình cảm ứng Samsung màu đen Imei: 353415089005790; 353416089005798; 01 điện thoại Oppo A1610 đã qua sử dụng, Imei1: 863632032613057, Imei2: 863632032613040 ốp lưng màu xA; 01 điện thoại VERTU S-018431 màu vàng đen đã qua sử dụng, Imei 355112333321111; 01 ví da nam nhãn hiệu Bogesi màu đen dạng đứng có khóa, bên trong ví có: 448.000đ; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 380162015783 và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 174644639 đều mang tên Trần Thế A.

Kết luận định giá tài sản số 86/KLĐG ngày 17/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố H kết luận: xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng, BKS 14A- 112.86 tại thời điểm bị trộm cắp trị giá 371.555.400đ.

Cáo trạng số 215/CT-VKSHL ngày 25/9/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Vũ Mạnh Đ về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Thế A về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm a khoản 3 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt Vũ Mạnh Đ từ 05 đến 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt. Đồng thuận một phần với đề nghị của Người bào chữa cho bị cáo Trần Thế A, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 323; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Thế A từ 07 đến 08 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tổng hợp với 24 tháng tù cho hưởng án treo tại Bản án số 10/2015/HSST ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa về tội “Cố ý gây thương tích” buộc bị cáo phấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 đến 10 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2018 được trừ đi những ngày đã tạmgiữ, tạm giam. Không đồng tình với quan điểm của Người bào chữa  áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 đối với bị cáo Trần Thế A.

Vật chứng: Tài sản đã trả lại chủ sở hữu không đề cập giải quyết. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 bộ BKS xe ôtô 30A-367.89; Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại IPhone6 Plus màu vàng số Imei 355877063714721; 01 điện thoại màn hình cảm ứng Samsung màu đen Imei: 353415089005790; 353416089005798; 01 điện thoại Oppo A1610 đã qua sử dụng, Imei1: 863632032613057, Imei2: 863632032613040 ốp lưng màu xA; Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại 01 điện thoại VERTU S-018431 màu vàng đen đã qua sử dụng, Imei 355112333321111 cho Trần Thế A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Vũ Mạnh Đ, Trần Thế A thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, việc bị truy tố và đưa ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan. Các bị cáo đã được thực hiện các quyền, nghĩa vụ, giải thích việc công bố bản án theo quy định của pháp luật, xin được xem xét để được hưởng khoan hồng của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Thế A trình bày: bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhận thức pháp luật còn hạn chế nhưng tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra bắt giữ Vũ Mạnh Đ; tài sản đã thu hồi trả lại bị hại, ngoài ra xuất trình đơn xin miễn giảm án và bản sao Quyết định kết nạp hội viên Hội cựu chiến binh Việt Nam của ông Trần Văn Q; bản sao bằng tổ quốc ghi công Liêt sĩ Trần Văn D (là bác của Trần Thế A). Đề nghị HĐXX căn cứ điểm h, s, t khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt.

Bị hại Phạm Quang P và người làm chứng Vũ Thanh H4 (vợ Phạm Quang P) trong quá trình điều tra và phiên tòa đều có lời khai thể hiện: khoảng 23h ngày 24/4/2018 anh, chị đỗ xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Acent màu trắng, BKS 14A-112.86 sát vỉa hè đường thuộc tổ 1, khu 7, phường B, Tp H rồi khóa cửa xe đi về cửa hàng bán điện thoại cách đó khoảng 200m. Đến khoảng 11h ngày 25/4/2018 anh P ra lấy xe đi làm phát hiện đã bị mất ôtô đã quay về báo cho chị H4 biết và trình báo với Công an phường B, thành phố H. Chiếc ôtô bị trộm cắp, chìa khóa, toàn bộ giấy tờ và số tiền bồi thường 20.000.000đ anh đã nhận, không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Vũ Mạnh Đ, Trần Thế A.

Người làm chứng Đặng Thanh T có lời khai thể hiện việc trực tiếp liên lạc với Trần Thế A để hỏi mua xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng đời 2014 với giá khoảng 130.000.000đ nhưng do nghi ngờ vì Trần Thế A hẹn xem xe đêm tối và vô tình đọc được trên mạng xã hội bài báo đăng mất xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng đời 2014 giống như chiếc ôtô Thế A đăng bán nên đã chụp ảnh màn hình bài viết gửi qua Zalo cho Trần Thế A và thông báo với Thế A chủ xe đăng báo mất trộm nên T không mua nữa.

Người làm chứng Đặng Anh P có lời khai thể hiện do có bạn muốn mua ôtô giá rẻ, khoảng 22giờ ngày 26/4/2018 anh cùng Bùi Thanh H1, Hoàng Dương Việt Tr điều khiển xe Carens màu ghi BKS 29A-39452 đi Hải Phòng gặp một thanh niên tự giới thiệu là C (sau này anh biết C tên thật là Thế A) tại điểm dừng chân trên Quốc lộ 10 và được C dẫn đi xem xe Hyundai Accent màu trắng rao bán trên mạng Facebook với giá 135.000.000đ, khi đang xem xe thì bị Công an kiểm tra và thông báo đó là chiếc vật chứng của một vụ án hình sự, lúc đó anh mới phát hiện chiếc xe Hyundai định mua không đeo BKS. Người làm chứng Bùi Thanh H1 và Hoàng Dương Việt Tr có lời khai nhận tối ngày 26/4/2018 cùng với Đặng Anh P1 đi xem xe Hyundai Accent màu trắng đời 2014, khi đang xem xe cùng thì bị Công an kiểm tra và mời về cơ quan có thẩm quyền làm việc.

Đặng Aanh P1 không biết xe ôtô định mua là tài sản do phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của Vũ Mạnh Đ về việc cất giấu chiếc chìa khóa ôtô cùng mục đích trộm cắp tài sản để bán lấy tiền trả nợ Ngân hàng và hành vi lén lút trộm cắp xe ôtô phù hợp với lời khai của bị hại Phạm Quang P, người làm chứng Vũ Thanh H4 về việc bị mất xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng, BKS 14A-112.86; phù hợp với các thông tin, hình ảnh mà bị cáo đã gửi để Trần Thế A đăng bán chiếc ôtô trên trang “Vua xe giá rẻ”, phù hợp với bản ảnh thực nghiệm điều tra; phù hợp với biên bản giao nhận người cùng tang vật hồi 03giờ ngày 27/4/2018 tại Công an xã Q, huyện A, Tp Hải Phòng, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường, Bản kết luận định giá tài sản.

Lời khai của Trần Thế A về việc tiêu thụ xe do phạm tội mà có nhằm hưởng chênh lệch phù hợp lời khai của người làm chứng Đặng Thanh T, phù hợp với những hình ảnh, tin nhắn được chụp từ màn hình điện thoại của Trần Thế A khi Đặng Thanh T thông báo cho Trần Thế A việc chủ xe báo mất tài sản; phù hợp với lời khai của bị cáo Vũ Mạnh Đ xác nhận Trần Thế A đã biết thông tin về chiếc xe bị mất nhưng vẫn liên lạc bán cho khách hàng.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận vào khoảng 10giờ 30phút ngày 25/4/2018 tại tổ 1, khu 7, phường B, thành phố H, Vũ Mạnh Đ trộm cắp của anh Phạm Quang P 01 xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Acent, màu trắng BKS 14A-112.86, trị giá 371.555.400đồng bán cho Trần Thế A với giá 70.000.000đồng. Trần Thế A biết xe ôtô BKS 14A- 112.86 Đ bán là xe do phạm tội mà có nhưng vẫn giao dịch, giới thiệu để bán 135.000.000đồng cho người khác nhằm hưởng chênh lệch. Khoảng 23giờ 15phút ngày 26/4/2018, tại khu vực cây xăng Núi Voi, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, khi Trần Thế A đang giới thiệu bán xe cho Đặng Anh P1 thì bị Công an phát hiện bắt giữ. Tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 173 và Điều 323 Bộ luật hình sự: Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

.....

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng 

Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

1.Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

.....

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:

a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Về nhân thân: năm 2013, bị cáo Vũ Mạnh Đ bị TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 thàng tù cho hưởng án treo về tội “Làm giải tài liệu của cơ quan, tổ chức” đã được xóa án tích; Bị cáo Trần Thế A đang phải chấp hành hình phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” của Bản án số 10/2015/HSST ngày 15/02/2015 của TAND huyện T, tỉnh Thanh Hóa mà lại thực hiện hành vi phạm tộido cố ý, lần phạm tội  này thuộc trường hợp tái phạm; buộc phải chấp hành hình phạt của tội mới tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án trước.

[3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; thể hiện ý thức coi thường pháp luật, vì muốn có tiền trả nợ bị cáo Đ đã lén lút, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của bị hại để chiếm đoạt tài sản. Bị cáo Trần Thế A biết rõ tài sản do Đ trộm cắp mà có nhưng vẫn tiêu thụ để hưởng chênh lệch. Bị cáo Vũ Mạnh Đ đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử; bị cáo Trần Thế A đang chấp hành một bản án khác nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn tái phạm. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi tương ứng với tính chất mức độ, mức độ tội phạm tội; cần cách ly khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Mạnh Đ không có; bị cáo Trần Thế A phải chịu trách nhiệm hình sự tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: cả 2 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt vì tài sản thu hồi đã trả lại bị hại gây thiệt hại không lớn; Vũ Mạnh Đ tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại 20.000.000đồng; Trần Thế A hợp tác với cơ quan điều tra liên lạc, xác định được chỗ ở và bắt giữ được Đ. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ theo điểm b, h, s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các tài liệu người bào chữa xuất trình tại phiên tòa không đủ căn cứ xem xét là tình tiết giảm nhẹ; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 không được chấp nhận do Trần Thế A phạm tội khi đang phải chấp hành bản án khác, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo Đ cũng đủ để răn đe, Trần Thế A được hưởng mức án đầu khung thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Về phần bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử không đề cập.

[6] Về vật chứng:

- 01 ôtô nhãn hiệu Kia Carens màu xám BKS 29A-394.52; 01 ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu trắng, BKS 14A-11286; 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số 018334; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 0701459; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc số 70104781; 01 phôtô giấy chứng nhận bảo hiểm thiệt hại vật chất xe ôtô không kinh doA vận tải số 0036653 và 01 giấy biên nhận thế chấp số 0026/BĐ-VIB42/164/VIB tất cả đều của xe ôtô BKS 14A-112.86 mang tên chủ xe là Phạm Quang P; 01 chìa khóa ôtô dài khoảng 05cm, có biểu tượng logo Hyundai, tay cầm màu đen đã trả lại cho chủ sở hữu; 01 ví da nam nhãn hiệu Bogesi màu đen dạng đứng có khóa, bên trong ví có: 448.000đ, 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 380162015783 và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 174644639 đều mang tên Trần Thế A đã trả lại cho ông Trần Văn Q (bố đẻ bị cáo Trần Thế A) nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 bộ biển kiểm soát ôtô 30A-367.89 (02 chiếc) không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại IPhone6 Plus màu vàng đã qua sử dụng số Imei 355877063714721; 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 màu đen đã cũ, Imei: 353415/08/900579/0, Imei: 353416/08/900579/8; 01 điện thoại Oppo F1S màu trắng đã cũ, mặt sau dán đề can màu xA là công cụ phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. 01 điện thoại VERTU S-018431 màu vàng đen đã qua sử dụng, Imei 355715/15/713912/8 Code 0564580 không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án nên trả lại cho bị cáo Trần Thế A.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Vũ Mạnh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Vũ Mạnh Đ 05 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 27/4/2018.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 323; điểm h, s, t khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Trần Thế A phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt: Trần Thế A 07 (Bảy) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo tại Bản án số 10/2015/HSST ngày 15/02/2015 của TAND huyện TG, tỉnh Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 27/4/2018, được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/12/2014 đến ngày 19/12/2014.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 bộ biển kiểm soát ôtô 30A-367.89 (02 chiếc); Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Iphone6 Plus màu vàng đã qua sử dụng số Imei 355877063714721; 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 màu đen đã cũ, Imei: 353415/08/900579/0, Imei: 353416/08/900579/8; 01 điện thoại Oppo F1S màu trắng đã cũ, mặt sau dán đề can màu xanh. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại 01 điện thoại VERTU S-018431 màu vàng đen đã qua sử dụng, Imei 355715/15/713912/8 Code 0564580 cho bị cáo Trần Thế A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng số 03/BB-THA ngày 09/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Tp H).

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Vũ Mạnh Đ, Trần Thế A mỗi bị cáo chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, bị hại báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

434
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 10/12/2018 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về