BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
285-TC/VP
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 09 năm 1970
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ, TIÊU CHUẨN, CHỈ TIÊU VỀ HỘI NGHỊ VÀ TIẾP
KHÁCH
(Thi
hành Chỉ thị số 159-TTg ngày 05-09-1970 của Thủ tướng Chính phủ về tiết kiệm
chi tiêu trong việc tổ chức hội nghị và tiếp khách)
A. CHI VỀ HỘI NGHỊ
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
đã nói rõ là “cơ quan tổ chức hội nghị phải cân nhắc kỹ thành phần triệu tập,
chuẩn bị kỹ nội dung để các cuộc hội nghị giải quyết nhanh gọn, thiết thực mọi
việc cần thiết, tiết kiệm thì giờ và của cải. Cân nhắc và chuẩn bị kỹ trước khi
triệu tậphọp sẽ tránh được tình trạng triệu tập họp tràn lan cả những người ít
liên quan đến nội dung họp, hoặc họp không đúng thành phần. Cũng cần tránh xa
tình trạng tổ chức hội nghị ở những nơi quá xa địa phương cơ quan đứng ra triệu
tập hội nghị, gây thêm tốn kém chung; trừ một số hội nghị chuyên đề tại nơi có
điển hình tốt để giúp cho đại hội hội nghị có dịp nghiên cứu thực tế tại chỗ để
học hỏi thêm.
Trong các cuộc hội nghị (sẽ nói ở
phần sau), cơ quan tổ chức hội nghị được chi những khoản chính sau đây:
- Nước, chè, theo tiêu chuẩn
0đ10 một đại biểu một ngày.
- Văn phòng phẩm và một số thuốc
chữa bệnh thông thường theo nhu cầu cần thiết.
Ngoài ra, tùy tình hình cụ thể,
được chi thêm các khoản sau đây (tính và hội nghị phí) với tinh thần hết sức tiết
kiệm:
1. Dầu thắp ở nơi không có điện theo nhu
cầu cần thiết.
2. Tiền thuê người làm cấp dưỡng, tiếp phẩm
trong trường hợp cơ quan không đủ người phục vụ, theo giá công do Ủy ban hành
chính địa phương quy định và theo tiêu chuẩn:
- 1 phục vụ từ 20 đến 25 đại biểu
(hội nghị tổ chức ở thành phố, thị xã);
- 1 phục vụ từ 15 đến 20 đại biểu
(hội nghị tổ chức ở nông thôn) hoặc tiền lệ phí nhà ăn nếu đại biểu hội nghị ăn
ở quán ăn tập thể hoặc ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh có thu tiền lệ phí.
3. Tiền thuê người làm công tác linh tinh
phục vụ hội nghị (như dọn vệ sinh…) theo giá công do Ủy ban hành chính địa
phương quy định và theo tiêu chuẩn một người phục vụ từ 40 đến 50 đại biểu.
4. Tiền thuê phòng ngủ, nếu cơ quan không
đủ chỗ ngủ cho đại biểu.
5. Hội nghị nào bàn về áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất và cần tổ chức đi tham quan một số cơ sở sản xuất để học tập
kinh nghiệm thực tế phải được Bộ trưởng (đối với cơ quan trung ương) hoặc Chủ tịch
Ủy ban hành chính tỉnh (đối với cơ quan địa phương) quyết định. Trong thời gian
đi tham quan, được chi như khi đang họp hội nghị. Tiền tầu xe đại biểu đi tham
quan tính theo chế độ công tác phí.
6. Trong trường hợp cá biệt, đại biểu hội
nghị là phụ nữ phải đem con mọn đi theo (dưới 3 tuổi), ban tổ chức hội nghị cần
sắp xếp cho chị em gửi con vào nhà trẻ của cơ quan hoặc nhóm trẻ dân lập gần nhất;
nếu phải chi tiền gửi trẻ thì cơ quan tổ chức hội nghị trả, còn tiền ăn của
cháu do mẹ cháu tự túc.
7. Nếu đại biểu hội nghị là người không
ăn lương Nhà nước thì được chi tiền theo mức tối đa 0đ80 một ngày, kể cả ăn
sáng (hoặc 0đ90 một ngày, nếu là người thuộc dân tộc ít người phải ăn cơm nếp),
tiền tầu xe và tiền ăn đường theo chế độ hiện hành.
Nghiêm cấm cơ quan tổ chức hội
nghị trích công quỹ (kinh phí ngân sách hoặc vốn sản xuất, kinh doanh) để
chi về những khoản sau đây cho đại biểu hội nghị, cho đại biểu tham gia đoàn
chủ tịch, đoàn thư ký và nhân viên phục vụ:
- Tiền ăn hàng ngày (trừ đại biểu
không có lương đã nói ở trên), tiền ăn thêm, bồi dưỡng ban đêm hoặc ngày nghỉ,
tiệc liên hoan khai mạc và bế mạc dù là tiệc mặn hay tiệc trà;
- Thuốc lá, chè loại tốt, kẹo bánh,
hoa quả, nước giải khát;
- Tổ chức xem biểu diễn nghệ thuật,
chiếu bóng giải trí. Nếu cơ quan tổ chức hội nghị mời các đoàn nghệ thuật đến
biểu diễn hoặc quốc doanh chiếu bóng đến chiếu phim cho đại biểu xem, thì phải
thu tiền của đại biểu để trả cho các đơn vị đó theo chế độ hiện hành; các đơn vị
này không được biểu diễn không thu tiền hoặc cho mượn máy, mượn phim;
- Tặng phẩm, quà biếu, tặng ảnh
lưu niệm cho đại biểu;
- Tham quan có tính chất giải
trí.
- Các hội nghị phải được dự trù
ngay từ đầu năm do Bộ trưởng (đối với các cơ quan trung ương) hoặc Chủ tịch Ủy
ban hành chính tỉnh (đối với các cơ quan địa phương) xét duyệt và ghi vào dự
toán đơn vị hàng năm. Đối với các cơ quan hành chính, sự nghiệp, kinh phí về hội
nghị gộp trong định mức tiêu chuẩn công vụ phí và chi tiêu trong phạm vi định mức
đó. Nếu có hội nghị đột xuất thì cũng chi tiêu trong phạm vi định mức đó; cơ
quan phải tự sắp xếp để giải quyết, không được lấy kinh phí khác để chi. Đối với
các đơn vị sản xuất, kinh doanh, chi về hội nghị tính vào quản lý phí xí nghiệp.
Mỗi lần tổ chức hội nghị, đơn vị
dự toán không phải gửi dự trù đến cơ quan tài chính để xét duyệt (vì chỉ được
phép chi tiêu theo đúng chế độ, tiêu chuẩn quy định trong thông tư này và
trong phạm vi định mức tiêu chuẩn công vụ phí đã được duyệt đầu năm). Đối với
những hội nghị đặc biệt cần chi tiêu theo chế độ riêng, đơn vị phải làm dự trù
cụ thể trình cấp có thẩm quyền duyệt (Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban
hành chính tỉnh).
Mười lăm ngày sau khi hội nghị bế
mạc, phải tổng kết chi tiêu và trình cấp cho thẩm quyền trong đơn vị duyệt. Chỉ
được ghi sổ sách kế toán những khoản chi đúng tiêu chuẩn, chế độ, có chứng từ hợp
lệ đã được xét duyệt.
Chế độ chi tiêu này thi hành thống
nhất đối với các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác toàn ngành, hội nghị tập huấn
toàn ngành của các cơ quan chuyên môn, hội nghị sơ kết, tổng kết công tác do Ủy
ban hành chính tổ chức có các ngành tham gia, hội nghị thảo luận chuyên đề có
các ngành tham gia.
Không được hưởng tiêu chuẩn chi
về hội nghị các cuộc họp nội bộ cơ quan để sơ kết, tổng kết công tác, các buổi
học tập chính trị, thời sự, nghiệp vụ chuyên môn và các cuộc họp hội ý, hội
báo. Những hội nghị có tính chất đặc biệt quan trọng (như hội nghị Quốc hội, hội
nghị Hội đồng nhân dân, đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua ở các cấp…)
có chế độ chi tiêu riêng, không theo quy định trên đây. Để giảm bớt các khoản
chi phí về hội nghị (tiền thuê người phục vụ, mua sắm đồ đạc, dụng cụ, lệ phí
nhà ăn, tiền thuê buồng trọ, tiền vận chuyển, chi về trang hoàng v.v…) những tỉnh
có điều kiện vật tư, địa điểm và thường có nhiều hội nghị có thể tổ chức những
khu vực riêng chuyên phục vụ hội nghị, có bộ máy quản lý và các phương tiện cần
thiết, đủ chỗ ăn ngủ cho đại biểu.
B. CHI VỀ TIẾP KHÁCH TRONG NƯỚC,
TỔ CHỨC CÁC NGÀY LỄ LỚN, CÁC NGÀY KỶ NIỆM LỊCH SỬ, CÁC CUỘC HỌP THÂN MẬT.
1. Chi về
khách trong nước:
Để tiếp khách trong nước, dù là
nhân dân hay cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước bất kỳ ở cương vị nào, ở cấp
trên về hay ở địa phương lên, đến liên hệ hay bàn định về công tác, đến giao dịch,
phản ánh tình hình, góp ý với cơ quan hoặc yêu cầu giải quyết việc riêng; đến
tham quan, đến nghiên cứu, học tập kinh nghiệm thực tế, thăm hỏi đơn vị kết
nghĩa, ngoài nước chè, cơ quan tiếp khách không được chi thêm một khoản nào
khác, như:
- Chiêu đãi ăn uống (tiệc mặn,
tiệc trà)
- Thuốc lá
- Kẹo bánh, hoa quả, đồ giải
khát…
- Xem biểu diễn nghệ thuật, chiếu
bóng…
- Chụp ảnh làm kỉ niệm.
- Tặng phẩm, quà biếu, vật lưu
niệm (dù là thứ sẵn có, sản phẩm của cơ sở sản xuất không phải mua ở ngoài).
Đi đôi với chủ trương cấm tặng quà đối với
cơ quan tiếp khách, Thủ tướng Chính phủ cũng đã quyết định cấm nhận quà tặng
đối với khách.
Cơ quan tiếp khách có thể chi về
tiền ăn cho khách theo mức cao nhất là 0đ80 một ngày hoặc 0đ90 một ngày (đối với
người thuộc dân tộc ít người) trong một số trường hợp sau đây:
- Đối với một số khách hàng
không phải là cán bộ ăn lương Nhà nước, do yêu cầu công tác được cơ quan mời đến
làm việc;
- Những khách đặc biệt đến thăm
cơ quan lãnh đạo từ cấp tỉnh trở lên;
- Đại diện các gia đình là cơ sở
cũ của các mạng đến thăm cơ quan lãnh đạo ở trung ương hay địa phương.
Đối với cán bộ có tiêu chuẩn
sinh hoạt riêng thì cơ quan tiếp khách có thể tiếp theo tiêu chuẩn của cán bộ
đó được hưởng và tiền ăn do người đó trả theo tiêu chuẩn được hưởng.
Về việc đón tiếp khách nước
ngoài, vẫn thi hành theo Chỉ thị số 12-TTg/TN ngày 05-02-1969 của Thủ tướng
Chính phủ. Chi phí về việc này phải ghi chép riêng, không ghi lẫn với chi phí về
tiếp khách trong nước.
Về việc đón tiếp thân nhân những
cán bộ công tác ở miền núi, vẫn thi hành theo Thông tư số 411-TTg ngày
07-9-1957của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 43-NV/TT ngày 30-11-1957 của liên
Bộ Nội vụ-Tài chính và thông tư bổ sung số 7-NV ngày 10-02-1958 của Bộ Nội vụ.
2. Chi về tổ
chức các ngày lễ lớn, các ngày kỉ niệm lịch sử (trước đây gọi là chi về khánh
tiết) và các cuộc họp thân mật.
a) Chi về trang hoàng
Trong các ngày lễ lớn, các ngày
kỷ niệm lịch sử, nếu cần trang hoàng, thì cơ quan phải tận dụng những phương tiện
sẵn có: trường hợp cần thiết phải mua sắm thêm, thì phải quán triệt tinh thần
triệt để tiết kiệm, tránh phô trương hình thức. Những thứ có thể sử dụng nhiều
lần (như vải khẩu hiệu, cờ, ảnh lãnh tụ…) phải tổ chức bảo quản chu đáo.
b) Chi về các cuộc họp mặt thân mật.
Nếu cần thiết tổ chức những cuộc
họp mặt với gia đình có công với cách mạng (nhân ngày 19-8, 2-9…) với thương
binh và gia đình liệt sĩ (nhân ngày 27-7), với quân nhân chuyển ngành (nhân
ngày 22-12), hoặc những cuộc họp mặt để tiễn cán bộ lên đường nhập ngũ, đi…thì
cơ quan, xí nghiệp được chi theo tiêu chuẩn không quá 0đ30 một người dự, để mua
các thứ cần thiết (chè, thuốc lá, hoa quả…)
Để khỏi ảnh hưởng nhiều đến sản
xuất, công tác, cuộc họp mặt cần tổ chức ngắn, gọn, đơn giản, không quá đông
người.
Ngoài tiêu chuẩn 0đ30, không được
chi thêm một khoản nào khác (kể cả chi về văn công, chiếu bóng, chụp ảnh làm kỷ
niệm).
Chi về tiếp khách trong nước, tổ
chức các ngày lễ và các cuộc họp thân mật được tính trong định mức công vụ phí
của cơ quan hành chính, sự nghiệp, hoặc quản lý phí xí nghiệp của các đơn vị sản
xuất, kinh doanh.
Mức chi hàng năm về các khoản
trên đây do cơ quan tài chính ở mỗi cấp, phối hợp với từng cơ quan hành chính,
sự nghiệp cùng cấp, ấn định căn cứ vào tình hình cụ thể của từng đơn vị và ghi
vào dự toán đầu năm (gộp trong định mức công vụ phí).
Đối với các đơn vị sản xuất kinh
doanh, mức chi khống chế hàng năm do các Bộ chủ quản (đối với các cơ quan trung
ương) hoặc Ủy ban hành chính tỉnh (đối với các cơ quan địa phương) quyết định.
C. CÁCH XỬ LÝ NHỮNG TRƯỜNG HỢP
CHI SAI CHẾ ĐỘ, TIÊU CHUẨN
Những khoản chi sai chế độ, tiêu
chuẩn sẽ không được cơ quan tài chính công nhận và phải xuất toán. Đối với đơn
vị hành chính, sự nghiệp cũng như đối với đơn vị sản xuất, kinh doanh người ra
lệnh chỉ sai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho công quỹ những khoản tiền đã
chi sai (theo Nghị định số 49-CP ngày 09-4-1968 của Hội đồng Chính phủ). Ngoài
ra, nếu xét cần, còn có thể bị thi hành kỷ luật về hành chính.
D. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Thông tư này thi hành cho tất cả
các cơ quan hành chính, sự nghiệp, sản xuất, kinh doanh từ cấp huyện trở lên,
các đoàn thể, các hội được Nhà nước trợ cấp về tài chính và thay thế các quy định
trước đây về chế độ chi tiêu về hội nghị, tiếp tân, khánh tiết (Điều lệ tiêu
chuẩn cung cấp về hành chính phí ban hành ngày 18-06-1957, Thông tư số
31-TC/HCP ngày 31-03-1958 và số 264-TC/HCP ngày 27-04-1962 của Bộ Tài chính).
Chỉ thị số 159-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và thông tư này cần được phổ biến rộng rãi cho toàn thể cán bộ, công
nhân, viên chức để mọi người quán triệt, thi hành đúng và chủ động ngăn chặn hoặc
phát hiện kịp thời mọi hiện tượng vi phạm chế độ.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Thanh Sơn
|