BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI
*******
Số : 204-LĐ
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà Nội, ngày 12
tháng 02 năm 1962
|
QUYẾT
ĐỊNH
BAN
HÀNH QUY TẮC TẠM THỜI VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH MỨC VÀ QUẢN LÝ MỨC KỸ THUẬT LAO ĐỘNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG
VẬN TẢI
Căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm của
ngành Giao thông Vận tải;
Để tăng cường việc định mức và quản lý mức kỹ thuật lao động, mở rộng chế độ
tiền lương tính theo sản phẩm trong các ngành giao thông vận tải.
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều
1.
– Ban hành quy tắc tạm thời về phương pháp định mức và quản lý mức kỹ thuật lao
động để áp dụng trong các ngành Giao thông Vận tải.
Điều
2.
- Để thực hiện bản quy tắc này thích hợp với đặc điểm vận
tải xây dựng và sản xuất của từng ngành, các Tổng cục, Cục, Công ty công trình
và những đơn vị trực thuộc khác của Bộ sẽ tùy theo tình hình cụ thể để quy định
các quy tắc cụ thể, tỉ mỉ cho ngành mình. Các quy tắc cụ thể của từng ngành
không được trái với quy tắc chung. Khi công bố những bản quy tắc cụ thể đó phải
được sự thỏa thuận của Vụ Lao động tiền lương.
Điều
3.
– Các ông Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Viện trưởng, Vụ trưởng, Giám đốc cảng,
Chủ nhiệm công ty, Chánh văn phòng Bộ và cán bộ lãnh đạo các cấp thuộc Bộ Giao
thông Vận tải có trách nhiệm thi hành quyết định này trong phạm vi trách nhiệm
của mình.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
THỨ TRƯỞNG
Dương Bạch Liên
|
VỀ
PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH MỨC VÀ QUẢN LÝ MỨC KỸ THUẬT LAO ĐỘNG
NGUYÊN
TẮC CHUNG
Điều
1.
– Định mức kỹ thuật lao động là căn cứ vào điều kiện kỹ thuật mà quy định mức
tiêu hao về thời gian làm việc để hoàn thành một công việc nhất định, gọi tắt
là “định mức kỹ thuật lao động ”.
Điều
2.
– Định mức kỹ thuật lao động là công tác chủ yếu trong
việc quản lý xí nghiệp và công trường, làm tốt công tác định mức kỹ thuật lao
động là tạo cơ sở vững chắc để xác định chỉ tiêu lao động một cách hợp lý, để
thực hiện chế độ tiền lương tính theo sản phẩm, một cách đúng đắn, để thực hiện
chế độ kinh tế hạch toán một cách chính xác. Quan trọng hơn nữa là thông qua
công tác định mức kỹ thuật để cải tiến quá trình tác nghiệp, phương pháp công tác, cải tiến tổ chức lao động, mở
rộng kinh nghiệm tiền tiến, trừ bỏ hiện tượng lãng phí sức lao động, nhằm không
ngừng nâng cao hiệu suất lao động, bảo đảm đạt tới mức tiêu hao thời gian làm
việc ít nhất, giá thành sản phẩm hạ nhất, chất lượng sản phẩm cao nhất. Vì thế
nên công bố bản quy tắc này để thống nhất áp dụng trong các ngành hoạt động của
Bộ.
Điều
3.
– Việc định mức kỹ thuật lao động phải dựa cào công nhân
tiền tiến và tiến hành theo thứ tự 3 bước: tả thực ngày công tác - khảo sát
thời gian tác nghiệp công việc – quy định mức kỹ thuật lao động.
TẢ
THỰC NGÀY CÔNG TÁC
Điều
4.
- Tả thực ngày công tác là dùng phương pháp quan sát tại chỗ để theo dõi và
phân tích một cách chính xác toàn bộ tình hình tiêu hao về thời gian lao động
trong cả ngày làm việc. Mục đích chính là phát hiện ra tình hình lãng phí về
thời gian làm việc; xác định những nguyên nhân gây ra lãng phí đó; định ra các
biện pháp cải tiến về tổ chức kỹ thuật để sử dụng thời gian công tác một cách
có hiệu quả nhất, khắc phục những khuyết điểm còn tồn tại trong quá trình sản
xuất. Việc tả thực ngày công tác còn có tác dụng quan trọng nữa là, xác định
thời gian chuẩn bị thu dọn, thời gian đứt quãng hợp pháp cần quy định trong
ngày làm việc đồng thời cùng để cung cấp tài liệu cần thiết cho việc khảo sát
thời gian tác nghiệp công việc. Do đó việc tả thực cần phải làm cụ thể, giản
đơn, nhưng rõ ràng.
Điều
5.
- Tả thực ngày công tác sẽ tùy theo đối tượng công việc mà chia ra mấy loại như
sau:
a) Tả thực ngày công
tác của một người :
Đối tượng tả thực là một công nhân trong một địa điểm làm việc.
b) Tả thực ngày công
tác của một tổ:
Đối tượng tả thực là một tổ sản xuất từ 2 người trở lên cùng hoàn thành một
công việc, để nghiên cứu xác định số người làm việc trong tổ đó và cách phân
công hợp lý.
c) Tả thực ngày công
tác của máy:
Đối tượng tả thực là máy móc để nghiên cứu trình độ phát huy hiệu suất của máy
móc và số lượng máy móc cần thiết thích đáng cho tổ chức lao động được phối hợp
với nhau.
d) Tả thực ngày công
tác của đường giây sản xuất;
Đối tượng tả thực là
một số địa điểm làm việc mà chỉ có thể ghi chép tình hình được bằng cách dựa
theo một đường giây làm việc nhất định để đi lại quan sát. Dựa vào kết quả ghi
chép quan sát phân tích, nghiên cứu cải tiến phương pháp làm việc và tổ chức
lao động để đặt cơ sở cho việc định mức kỹ thuật lao động.
Điều
6.
– Việc tả thực ngày công tác làm theo trình tự các bước sau đây:
a) Chuẩn bị trước khi
tả thực: điều tra, nghiên cứu toàn bộ điều kiện sản xuất (thiết bị máy móc tính
chất dụng cụ, tổ chức lao động nơi làm việc và các sự việc có liên quan khác
v.v… điền vào bản tài liệu rất tỷ mỉ).
b) Tìm đối tượng tả
thực để tiến hành tuyên truyền đả thông tư tưởng, động viên công nhân phát huy
tính sáng tạo và tính tích cực của họ.
c) Tiến hành tả thực:
theo dõi tại chổ, ghi chép cụ thể, đơn giản nhưng rõ ràng, chính xác tất cả các
loại thời gian tiêu hao trong cả ngày làm việc.
d) Chỉnh lý tài liệu,
phân tích nguyên nhân thời gian tiêu phí.
e) Vạch ra phương
sách cải tiến, tổng kết với theo rõi ghi chép ngày công tác, xác định thời gian
chuẩn bị và thu dọn, thời gian đứt quãng hợp pháp cần thiết trong ngày làm
việc.
Điều
7.
– Thời gian công tác (P) trong cả ngày làm việc chia ra làm 3 loại thời gian
chính là:
Thời gian sản xuất
(PN)
là thời gian mà người thợ đó sử dụng vào việc chế biến ra sản phẩm hay hoàn
thành công việc theo trình độ thành thạo nghề nghiệp của họ.
Thời gian không sản
xuất (PH): là
thời gian tiêu phí một cách rất vô ích, cần phải có biện pháp để hoàn toàn khắc
phục được.
Thời gian đứt quãng
hợp pháp
(N): là thời gian đứt quãng cần thiết không thể nào tránh được trong
ngày làm việc, mà chỉ có thể đề ra biện pháp để làm giảm bớt hay rút ngắn cho
hợp lý, tiến bộ hơn mà thôi.
Thời gian sản xuất
(PN):
chia ra làm hai loại thời gian nữa là:
- Thời gian chuẩn bị
và thu dọn (N3); là một phần thời gian sản xuất có liên quan tới việc chuẩn bị
và thu dọn việc làm.
- Thời gian tác
nghiệp (TO): là thời gian trực tiếp tiêu dùng vào việc chế biến ra sản phẩm hay
hoàn thành một công việc.
- Thời gian chuẩn bị
và thu dọn (N3) bao gồm 2 loại thời gian:
+ Thời gian chuẩn bị
và thu dọn có liên quan trong cả ngày làm việc (N3N).
+ Thời gian chuẩn bị
thu dọn có liên quan riêng đến từng loại công việc một (N3P).
- Thời gian tác
nghiệp (TO) bao gồm:
+ Thời gian cơ bản
(O)
+ Thời gian bổ trợ
(B)
Thời gian không sản
xuất (PH)
: chia làm 2 loại thời gian là:
- Thời gian không sản
xuất không do người công nhân tạo nên (HH)
- Thời gian không sản
xuất do người công nhân tạo nên (H3).
Thời gian đứt quãng
hợp pháp (N):chia
làm 3 loại thời gian là:
- Thời gian đứt quãng
do trình tự kỹ thuật công việc (TN).
- Thời gian đứt quãng
do tổ chức (OTN).
- Thời gian đứt quãng
do nhu cầu tự nhiên (3N).
(Có bảng phụ lục quy
định các loại thời gian công tác kèm theo).
Ký hiệu giản đơn dùng
trong việc tả thực ngày công tác của tổ.
P = Thời gian công
tác :
N3N = Thời gian chuẩn
bị thu dọn có liên quan đến cả ngày công tác.
N3P = Thời gian chuẩn
bị thu dọn cho nột công việc.
HH = Thời gian không
sản xuất không do người thợ tạo nên.
H3 = Thời gian không
sản xuất do người thợ tạo nên.
TN = Thời gian đứt
quãng vì trình tự kỹ thuật công việc.
OTN = Thời gian đứt
quãng vì tổ chức.
3N = Thời gian đứt
quãng do nhu cầu tự nhiên.
Ký hiệu giản đơn dùng
trong việc tả thực ngày làm việc của máy.
P = Thời gian máy
chạy;
NOP = Thời gian máy
ngừng chạy vì chờ đợi công việc;
NOS = Thời gian máy
ngừng chạy vì thiếu dụng cụ;
NOY = Thời gian máy
ngừng chạy vì không có điện hoặc máy hư hỏng;
NON = Thời gian máy
ngừng chạy vì chờ vật liệu;
NOX = Thời gian máy
ngừng chạy vì sửa chữa;
NOT = Thời gian máy
ngừng chạy vì các nguyên nhân khác.
BẢNG PHÂN PHỐI LOẠI
THỜI GIAN TIÊU HAO TRONG NGÀY LÀM VIỆC
Điều
8.
– Những ký hiệu dùng để phân biệt các loại thời gian tiêu hao trong ngày làm
việc nói trên đều áp dụng thống nhất trong tất cả các ngành hoạt động trong Bộ.
Điều
9.
– Việc tả thực ngày công tác phải tùy theo tính chất công việc mà định số ngày
hoặc số lần cần phải tả thực cho được sát và thích hợp, tạm thời quy định như
sau:
a) Đối với những công
việc làm hàng loạt mỗi ngày có thể sản xuất ra được nhiều sản phẩm thì việc tả
thực có thể làm ít nhất là một ngày.
b) Đối với công việc
làm hàng loạt mà thời gian phải làm một ngày hoặc từ một ngày trở lên mới xong
một sản phẩm hay mới hoàn thành một công tác thì việc tả thực phải làm ít nhất
là 2 lần.
c) Đối với những công
việc làm một lần thì mỗi khi làm đến đều phải tả thực để xác định mức.
Điều
10.
– Khi tả thực ngày công tác của tổ hay nhóm việc quan sát các loại thời gian
tiêu hao trong ngày công tác của từng người thợ có nhiều khó khăn thường không
được chính xác lắm, để tiện cho việc theo dõi và ghi chép, tạm thời quy định
tiêu chuẩn thời gian cách quãng làm mốc để ghi trong khi tả thực như sau:
Số người làm việc
trong tổ hay nhóm
|
Từ 2 đến 3 người
|
Từ 4 người trở lên
|
- Tiêu chuẩn thời
gian cách quãng làm mốc
|
3 phút
|
5 phút
|
KHẢO
SÁT THỜI GIAN TÁC NGHIỆP
Điều
11.
- Khảo sát thời gian tác nghiệp là quan sát và ghi chép nhiều lần, thời gian sử
dụng của công nhân qua từng khâu công việc của một sản phẩm hoặc một công việc
nhất định. Từ đó tiến hành phân tích; nghiên cứu; tìm ra những cải tiến và
phương pháp làm việc. Mục đích chính không những chỉ để xác định định mức kỹ
thuật lao động được chính xác, mà quan trọng hơn nữa là để cải tiến sản xuất,
tổng kết, phổ biến những kinh nghiệm của công nhân tiền tiến, đồng thời cũng
tìm ra những nguyên nhân công nhân không hoàn thành định mức, nghiên cứu đề ra
biện pháp khắc phục những nguyên nhân đó để làm cho mọi người công nhân đều đạt
được mức và vượt mức quy định.
Điều
12.
– Việc khảo sát thời gian tác nghiệp làm theo các bước sau đây:
a) Chuẩn bị trước khi
khảo sát:
tìm hiểu toàn bộ quá trình công việc, phân chia công việc ra từng khâu cần
thiết: tìm hiểu tình hình thiết bị ; dụng cụ, vật liệu, chuẩn bị đầy đủ biểu
mẫu và các phương tiện để khảo sát.
b) Tiến hành khảo
sát:
Theo dõi. Ghi chép tỉ mỉ thời gian tác nghiệp từng khâu công việc.
c) Nghiên cứu phân
tích tài liệu đã khảo sát: xác định thời gian tác nghiệp và trình tự tác nghiệp kỹ
thuật hợp lý; định mức giờ làm một sản phẩm hay một công việc đã định.
Điều
13.
Đối tượng khảo sát chủ yếu là thì giờ cơ bản, thì giờ bổ trợ. Những thì giờ
khác có liên quan tới công tác này trong lúc khảo sát cũng phải ghi chép để
nghiên cứu phân tích.
Điều
14.
Khi khảo sát thời gian tác nghiệp cần chọn công nhân tích cực; cấp bậc công
nhân phù hợp với cấp bậc của công việc, công nhân làm theo trình tự tác nghiệp
kỹ thuật tiền tiến, đồng thời phải chú ý đến cả những yếu tố khác (như đồ dùng,
nguyên vật liệu, máy móc v.v…) có ảnh hưởng tới thời gian tác nghiệp phải phù
hợp với yêu cầu (tham khảo thêm điều 19).
Điều
15.
– Khi khảo sát thời gian tác nghiệp phải chia quá trình
tác nghiệp ra thành các khâu công việc. Khoảng thời gian từ khâu công việc này
chuyển sang khâu công việc khác gọi là điểm định giờ. Cán bộ khảo sát căn cứ
vào tình hình cụ thể mà xác định điểm định giờ cho hợp lý để ghi chép thời gian
tác nghiệp từng khâu công việc cho được chính xác.
Điều
16.
– Cách ghi giờ liên tục là phương pháp tốt nhất để khảo
sát thời gian tác nghiệp. Cách ghi riêng lẻ chỉ dùng khi cần khảo tra tỷ mỉ để
xác định nhân tố kéo dài thời gian trong từng khâu công việc. Khi khảo sát phải
hết sức chú ý tới thứ tự hợp lý của các khâu công việc và điều kiện bình thường
của công việc. Tất cả các hiện tượng làm ngừng việc hoặc đứt quãng làm cho kéo
dài thời gian tác nghiệp đều ghi vào cột đình đốn không hợp với điều kiện công
tác bình thường trong biểu mẫu dùng vào việc khảo tra thời gian tác nghiệp để
nghiên cứu, phân tích.
Điều
17.
– Khi khảo sát thời gian tác nghiệp cần tham khảo bảng quy định về hệ số ổn
định thời gian của từng khâu công việc, hệ số ổn định thời gian của từng khâu
công việc là tỷ lệ hợp lý về thời gian sử dụng nhiều nhất và ít nhất để hoàn
thành từng khâu công việc.
Hệ số ổn định lớn hay
nhỏ là tùy theo thời gian hoàn thành từng khâu công việc dài hay ngắn mà định
khác nhau.
Khi khảo sát xong nếu
hệ số ổn định thực tế vượt quá hệ số ổn định quy định trong điều này thì việc
khảo sát phải làm lại. Hệ số ổn định quy định như sau:
Loại sản xuất
|
Thời gian sử dụng
mỗi khâu công việc
|
Hệ số ổn định lớn
nhất
|
Tay
|
Máy
|
Sản xuất hàng loạt
dài
|
Dưới 5 phút
Từ 6 phút đến 30
phút
Từ 31 phút trở lên
|
1,6
1,5
1,3
|
1,4
1,3
1,2
|
Sản xuất hàng loạt
ngắn
|
Dưới 5 phút
Từ 6 phút đến 30
phút
Từ 31 phút trở lên
|
1,8
1,6
1,5
|
1,5
1,4
1,3
|
Chú ý: Đối với những công
việc làm một lần không thể khảo sát thời gian tác nghiệp được, thì mỗi khi làm
tới đều phải tả thực để xác định mức.
Điều
18.
- Số lần khảo sát thời gian tác nghiệp một công việc, hoặc một sản phẩm phải
dựa vào thời gian tác nghiệp ấy dài hay ngắn mà quy định.
Thời gian tác
nghiệp của một sản phẩm
|
10 phút trở xuống
|
11 phút đến 20 phút
|
21 phút đến 30 phút
|
31 phút trở lên
|
Số lần khảo sát ít
nhất từ
|
6 – 10 lần
|
5 – 8 lần
|
4 – 6 lần
|
3 – 4 lần
|
Điều
19.
– Khi khảo sát xong, bộ môn định mức kỹ thuật lao động và bộ môn kỹ thuật cùng
nhau phân tích tài liệu khảo sát một cách có hệ thống kết hợp với tài liệu đã
tổng kết trong bước tả thực ngày công tác để đi đến kết luận hai vấn đề:
1. Quá trình tác
nghiệp hợp lý, từ đó rút ra kinh nghiệp tiền tiến đặt kế hoạch phổ biến rộng
rãi để anh chị em công nhân cùng nghề học tập và áp dụng, đẩy mạnh phong trào thi
đua cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất tới tạo điều kiện cần thiết để anh
chị em công nhân đạt và vượt định mức kỹ thuật lao động một cách thuận tiện.
2. Xác định thời giờ
cơ bản, thời giờ bổ trợ, thời giờ chuẩn bị và thu dọn, thời giờ đứt quãng hợp
pháp cần thiết để hoàn thành một sản phẩm hay một công việc. Từ đó xác định
thành định mức kỹ thuật trung bình tiền tiến.
ĐỊNH
MỨC KỸ THUẬT LAO ĐỘNG
Điều
20.
– Định mức kỹ thuật lao động thể hiện bằng hai hình thức:
1 – Định mức bằng giờ
làm.
Ví dụ: Mức trung tu
một xe ô-tô Skoda là 1390 giờ.
2 – Định mức bằng sản
lượng.
Ví dụ: Một công nhân
mỗi ngày phải sản xuất 5 sản phẩm.
Nói chung định mức
bằng giờ làm thường dùng trong trường hợp sản xuất 1 lần hay sản xuất ít, định
mức bằng sản lượng thường dùng trong trường hợp sản xuất hàng loạt. Định mức
bằng sản lượng căn bản là dựa vào định mức bằng giờ làm để tính.
Điều
21.
– Định mức giờ làm một sản phẩm hoặc một công việc là do 3 yếu tố sau đây tạo
thành.
a) Thời gian tác
nghiệp TO = O + B,
b) Thời gian chuẩn bị
và thu dọn N3,
c) Thời gian đứt
quãng hợp pháp N;
Định mức giờ làm việc
tính theo công thức dưới đây:
hay là =
Trong đó:
TW = Định mức giờ làm
một đơn vị sản phẩm,
TO = Thời gian tác
nghiệp,
O = Thời gian cơ bản,
B = Thời gian bổ trợ,
a = Thời gian chuẩn
bị và thu dọn có liên quan đến cả ngày làm việc tính bằng % so với thời gian
tác nghiệp,
b = Thời gian đứt
quãng hợp pháp tính bằng % so với thời gian tác nghiệp,
c = Thời gian chuẩn
bị và thu dọn của một loạt sản phẩm cùng một loại.
n = Số lượng sản phẩm
cùng một loại
Ví dụ: Một tổ sản
xuất đá dăm 10 người (sau khi tả thực và phân tích) ta thấy thời gian làm việc
trong một ngày là 80 giờ và sản xuất 20m3 đá dăm, giờ
chuẩn bị và thu dọn trong ngày làm việc là 1 giờ 40, giờ đứt quãng hợp pháp (N)
là 1 giờ 20, giờ chuẩn bị cho việc sản xuất đá (C) như vào kho lĩnh thuốc mìn,
đợi dụng cụ làm đá v.v… là 1 giờ. Vậy cách tính thời gian sản xuất ra mỗi m3
đá dăm như sau:
Ta đã biết:
Thời gian tác nghiệp
TO trong cả ngày làm việc là TO = 80 giờ - (1 giờ 40 + 1 giờ 20 + 1 giờ) = 76
giờ.
- Thời gian tác
nghiệp của mỗi m3 đá dăm sẽ là:
TO =
|
76 giờ
|
= 3 giờ 48
|
20 m3
|
tỷ lệ thời gian chuẩn
bị thu dọn có liên quan trong ngày làm việc so với thời gian tác nghiệp TO
trong cả ngày làm việc là:
A =
|
1 giờ 40
|
= 2,1%
|
76 giờ
|
- Tỷ lệ thời gian đứt
quãng hợp pháp (N) so với thời gian tác nghiệp trong ngày làm việc là:
B =
|
1 giờ 20
|
= 1,7%
|
76 giờ
|
Chúng ta thấy rằng:
- Tỷ lệ a so với TO
trong cả ngày làm việc là 2,1% vậy tỷ số a với TO của 1m3 đá dăm
cũng là 2,1% (tỷ lệ thuận).
Tỷ lệ b so với TO
trong ngày làm việc là 1,7%. Vật tỷ lệ b so với TO của 1m3 đá dăm
cũng là 1,7% (tỷ lệ thuận).
Do đó ta có thể tính
thời gian sản xuất ra mỗi 1m3 đá dăm là:
Thay bằng con số
trong công thức trên ta sẽ được:
TW = 3 giờ 48 +
(3,48 x
|
2,1
|
) + (3,48 x
|
1,7
|
) +
|
1 giờ
|
100
|
100
|
20
|
= 3 giờ 48 + 5’ + 4’
+ 3’ = 4 giờ
Điều
22.
– Định mức kỹ thuật lao động được xác định theo phương pháp này là mức trung
bình tiền tiến có căn cứ kỹ thuật nghĩa là định mức được xác định sau khi đã
loại trừ những yếu tố tiêu phí thời gian không cần thiết mà trong thực tế có
thể loại trừ được, đồng thời có chú ý thích đáng đến cả khả năng có thể phát
huy được về công suất của máy móc, thiết bị.
Trong khi tiến hành
việc định mức kỹ thuật lao động theo phương pháp này phải chú ý đầy đủ đến sự
tham gia của công nhân tiền tiến, dựa vào công nhân tiền tiến. Khi đã tả thực
ngày công tác và khảo sát thời gian tác nghiệp xong ở những bộ phận sản xuất chủ
yếu đủ để anh chị em công nhân nghiên cứu giải quyết các vấn đề cần thiết có
thể sẽ do anh chị em công nhân tự xác định mức. Mức do anh chị em công nhân tự
xác định, sau khi được tổ sản xuất tham gia, bộ môn định mức và bộ môn kỹ thuật
của đơn vị thẩm tra sẽ được đưa áp dụng nhu những mức đã được xác định theo
phương pháp định ở chương II, III.
Trường hợp chưa thể
định mức theo phương pháp định trong bản quy tắc này được, thì có thể căn cứ
vào thống kê kinh nghiệm kết hợp với phân tích kỹ thuật và tham khảo ý kiến của
công nhân để xác định và áp dụng. Nhưng phạm vi định mức xác định theo phương
pháp thống kê kinh nghiệm chỉ hạn chế trong trường hợp công việc làm một lần,
sản xuất một cái, hoặc những công việc không chính yếu trong đơn vị.
Điều
23.
– Trong tất cả các ngành hoạt động của Bộ, những công việc nào có thể định mức
kỹ thuật lao động được đều căn cứ vào bản quy tắc này và đặc điểm sản xuất của
từng ngành để tiến hành việc định mức kỹ thuật lao động.
Trong khi xác định
mức nếu gặp những vấn đề cụ thể mà Bộ chưa quy định thống nhất, thì các Cục chủ
quản, Viện, Công ty công trình, các Khu, Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương
có thể tạm thời quy định áp dụng nhưng phải báo cho vụ Lao dộng tiền lương của
Bộ biết.
Điều
24.
– Khi bộ môn định mức kỹ thuật lao động đã căn cứ vào những quy tắc này và phối
hợp với bộ môn kỹ thuật của đơn vị cơ sở chuẩn bị xong các định mức kỹ thuật
lao động của đơn vị rồi thì phải đưa ra “Hội đồng định mức kỹ thuật ” của đơn
vị thẩm tra và xác định.
Thành phần của hội
đồng định mức kỹ thuật lao động ở đơn vị gồm có:
- Đại diện của ban
giám đốc xí nghiệp hoặc ban chỉ huy công trường làm chủ tịch.
- Trưởng phòng lao
động tiền lương, định ngạch thường trực.
- Trưởng hoặc phó
phòng kỹ thuật ủy viên,
- Trưởng hoặc phó
phòng kế hoạch ủy viên,
- Thư ký công đoàn
hoặc đại diện chấp hành công đoàn ủy viên,
- Bí thư chi đoàn
thanh niên lao động (nếu có) ủy viên,
- Trưởng hoặc phó
phòng tài vụ (nếu có) ủy viên,
- Trưởng hoặc phó
phòng cung ứng vật tư, ủy viên,
- Phân xưởng trưởng
ủy viên,
- Trưởng ngành sản
xuất hoặc tổ trưởng sản xuất, ủy viên.
(Các phân xưởng
trưởng, trưởng ngành hay tổ trưởng sản xuất chỉ nên dự các buổi họp của Hội
đồng khi thảo luận đến vấn đề định mức ở phân xưởng mình, ngành mình và các
buổi họp sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện mức).
Hội đồng có trách
nhiệm thẩm tra, xác định các mức kỹ thuật lao động, nghiên cứu các biện pháp và
cải tiến tổ chức, cải tiến quản lý, các kinh nghiệm tiền tiến cần phổ biến áp
dụng và có biện pháp cụ thể để thực hiện những vấn đề đó.
Khi hội đồng đã thẩm
tra và xác định xong, thủ trưởng đơn vị căn cứ vào phạm vi quyền hạn của mình
đặt kế hoạch thực hiện các biện pháp cần thiết để tạo mọi điều kiện thuận tiện
cho việc thực hiện định mức mới, đồng thời phối hợp với công đoàn để công nhân làm
thử. Sau một tháng, làm thử, hội đồng sẽ căn cứ vào kinh nghiệm thực tế để thẩm
tra, chỉnh lý và đề nghị cấp có thẩm quyền phê chuẩn để chính thức công bố.
Riêng đối với loại định mức một lần thì không qua thời gian làm thử.
Điều
25. –
Khi gửi các tài liệu định mức kỹ thuật lên cấp trực tiếp thẩm tra xét duyệt
phải làm thuyết minh rõ ràng, tỷ mỷ những điều nói dưới đây và điền vào quyết
định mức kỹ thuật lao động:
a) Tình hình khái
quát về phương pháp làm việc và tổ chức lao động.
b) Quy định thời gian
đứt quãng chính thức và thời gian chuẩn bị và thu dọn.
c) Tình hình khái
quát về thiết bị và năng lực tính chất của máy móc, dụng cụ, làm thành 3 bản,
sau khi thủ trưởng đơn vị ký tên gửi lên các cấp có thẩm quyền xét duyệt rồi
mới được công bố thi hành (quy định quyền hạn các cấp bộ nào được xét duyệt các
loại mức kỹ thuật lao động nói trong phần quản lý mức kỹ thuật), bộ môn định
mức kỹ thuật Tổng cục, Cục, Viện, Công ty Công trình, Khu, Sở, Ty Giao thông
vận tải địa phương giữ lại một bản, gửi Vụ Lao động tiền lương của Bộ 1 bản và
trả lại cho đơn vị 1 bản để công bố áp dụng.
Điều
26.
- Mỗi khi có sự thay đổi mức kỹ thuật lao động (như đã quy định, trong các điều
về phần quản lý mức Tổng cục, Cục, Viện, Công ty công trình trực thuộc Bộ phải
kịp thời báo cáo về Bộ (Vụ lao động tiền lương ) trình bầy lý do thay đổi mức,
trường hợp cần phải trình bầy bản vẽ thì cũng gửi kèm theo để tiện việc tham
khảo theo dõi tình hình thực hiện mức và phổ biến cho các ngành nếu Bộ xét thấy
cần thiết.
QUẢN
LÝ MỨC KỸ THUẬT LAO ĐỘNG
Điều
27.
Quản lý mức kỹ thuật lao động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của việc quản
lý xí nghiệp và công trường, nhằm cải tiến sản xuất, không ngừng nâng cao năng
suất lao động, đảm bảo cho việc thực hiện tiền lương tính theo sản phẩm được
tốt.
Quản lý mức kỹ thuật
lao động là thường xuyên thống kê, theo dõi, phân tích tình hình thực hiện mức,
kịp thời tìm ra những nguyên nhân không đạt được mức và có biện pháp giải
quyết,cũng như tìm ra những nhân tố vượt mức của công nhân tiền tiến, tổng kết
thành kinh nghiệm phổ biến rộng rãi trong công nhân để đẩy mạnh việc nâng cao
năng suất lao động, và kịp thời sửa đổi lại định mức trong những trường hợp cần
thiết.
Điều
28. Tất
cả những mức kỹ thuật lao động dùng để làm lương sản phẩm đều phải dựa vào
phương pháp định ở trong bản quy tắc này mà xác định. Trường hợp gặp khó khăn,
nơi nào chưa làm theo phương pháp này ngay được, thì có thể tạm thời áp dụng
phương pháp thống kê kinh nghiệm kết hợp với phân tích kỹ thuật để xác định.
Điều
29.
- Mỗi khi xác định các mức kỹ thuật lao động việc định cấp bậc công việc cũng
phải tiến hành song song một cách chính xác.
Điều
30.
Quyền hạn và trách nhiệm xét duyệt các mức kỹ thuật lao động quy định như sau.
1. Mức kỹ thuật do Bộ
định:
a) Là những mức được
xác định trên cơ sở thiết bị, tổ chức, kỹ thuật, sản xuất như nhau, có thể và
cần thiết phải áp dụng thống nhất như nhau trong các ngành đường sắt, đường
thủy và đường bộ. Những mức này do Tổng cục đường sắt, các Cục, Viện, Công ty
công trình thuộc Bộ đặt ra, Vụ Lao động tiền lương thẩm tra, Bộ trưởng phê
chuẩn, công bố.
b) Mức được xác định
trên cơ sở thiết bị, tổ chức, kỹ thuật, sản xuất giống nhau, có thể và cần
thiết phải áp dụng thống nhất như nhau trong các cơ quan Giao thông vận tải địa
phương. Những mức này do các cơ quan Giao thông vận tải địa phương đặt ra. Vụ
lao động tiền lương cùng với Cục chủ quản phối hợp thẩm tra, Bộ trưởng phê
chuẩn, công bố.
c) Riêng đối với cảng
Hải Phòng hiện nay thuộc Bộ quản lý, những mức chủ yếu về bốc dỡ hàng ở cảng do
Cảng quy định, Vụ Lao động tiền lương thẩm tra, Bộ trưởng phê chuẩn.
Các mức kỹ thuật lao
động Bộ công bố quy định thời hạn sử dụng một năm rưỡi.
Những mức chủ yếu về
bốc dỡ hàng ở cảng Hải Phòng Bộ phê chuẩn quy định sáu tháng.
2. Mức kỹ thuật Tổng
cục đường sắt định:
Ngoài những mức Bộ đã
công bố, Tổng cục đường sắt có trách nhiệm định các loại mức sau đây:
a) Mức được xác định
trên cơ sở thiết bị, tổ chức kỹ thuật, sản xuất như nhau, có thể và cần thiết
phải áp dụng thống nhất như nhau trong ngành Đường sắt. Những mức này do các
Cục, Viện,Công ty đường sắt đặt ra, Vụ Nhân sự giáo dục tiền lương đường sắt
thẩm tra, Tổng cục trưởng phê chuẩn công bố.
b) Mức được xác định
trên cơ sở thiết bị, tổ chức kỹ thuật sản xuất giống nhau mà cần phải áp dụng
thống nhất trong từng Cục chủ quản hay Công ty đường sắt, thì do các Cục chủ
quản, Công ty đường sắt đặt ra. Vụ nhân sự giáo dục tiền lương Tổng cục thẩm
tra, Tổng cục trưởng phê chuẩn công bố.
c) Những mức tuy chỉ
áp dụng riêng trong từng đơn vị, những mức nào khối lượng công việc rất lớn, có
liên quan đến nhiều mặt, chưa tiện để cho các Cục quản lý xác định thì do Cục
đó đặt ra. Vụ nhân sự giáo dục tiền lương Tổng cục thẩm tra, Tổng cục trưởng
phê chuẩn.
Tất cả những mức Tổng
cục đường sắt xét duyệt công bố, đều gửi về Vụ Lao động tiền lương của Bộ một
bản để thẩm tra.
Thời hạn sử dụng các
mức Tổng cục đường sắt công bố quy định một năm.
Ngoài những mức Bộ,
Tổng cục đường sắt đã công bố Tổng cục đường sắt sẽ quy định các loại mức thuộc
phạm vi các Cục, viện, Công ty đường sắt và các cơ sở sản xuất trong ngành có
quyền được xác định và sử dụng.
3. Mức kỹ thuật do
các Cục, Viện, Công ty công trình thuộc Bộ và các cơ quan Giao thông vận tải
địa phương định.
Ngoài những mức Bộ đã
công bố, các Cục, Viện, Công ty công trình thuộc Bộ có trách nhiệm xác định các
loại mức mà điều kiện thiết bị, tổ chức, kỹ thuật sản xuất giống nhau, có thể
và cần thiết phải áp dụng thống nhất như nhau trong từng Cục, Viện, Công ty
công trình của mình. Những mức này do cả Cục, Viện, Công ty công trình đặt ra,
công bố thi hành gửi về Vụ Lao động tiền lương của Bộ một bản để thẩm tra. Đối
với những mức tuy chỉ áp dụng riêng trong từng đơn vị mà mức nào khối lượng
công việc rất lớn có liên quan đến nhiều mặt, chưa tiện để cho đơn vị xác định,
thì đơn vị đó đặt ra, cấp trên trực thuộc xét duyệt công bố. Những loại mức này
không phải gửi về Vụ lao động tiền lương của Bộ để thẩm tra.
Thời gian sử dụng các
loại mức do các Cục, Viện, Công ty công trình thuộc Bộ xét duyệt quy định một
năm.
Đối với những mức áp
dụng ở các cơ quan giao thông vận tải địa phương thì do các cơ quan giao thông
vận tải địa phương định, những mức đó không được thấp hơn những mức của Nhà
nước đã công bố, và gửi về Vụ lao động tiền lương của Bộ một bản để thẩm tra.
Thời hạn sử dụng các
mức do các cơ quan giao thông vận tải địa phương xác định quy định một năm.
4. Mức kỹ thuật do
các đơn vị cơ sở định.
- Là những mức không
thuộc các cấp bộ trên xét duyệt và quản lý. Những loại mức này do đơn vị xác
định công bố thi hành và gửi cấp trên trực tiếp thẩm tra.
- Đối với những mức
một lần thuộc bộ phận sản xuất nào làm, thì do bộ phận sản xuất nơi đó định ra,
tham khảo ý kiến công nhân tạm thời áp dụng và báo cáo thủ trưởng đơn vị phê
chuẩn.
- Những đơn vị mới
lần đầu tiến hành làm lương sản phẩm, hoặc những công việc mới bắt đầu làm theo
lương sản phẩm thì những mức đó đơn vị đặt ra cấp trên trực tiếp xét duyệt mới
được áp dụng.
Những mức đơn vị cơ
sở xác định quy định thời gian sử dụng sáu tháng, nếu là mức một lần thì chỉ áp
dụng một lần. Những mức lần đầu tiên làm lương sản phẩm đơn vị đặt ra cấp trên
trực tiếp phê chuẩn, cũng chỉ áp dụng sáu tháng.
Điều
31.
–Đối với những mức thi công trong ngành xây dựng, nếu Nhà nước công bố để áp
dụng thống nhất trong toàn quốc thì áp dụng thống nhất Trường hợp Nhà nước hoặc
chính quyền địa phương chưa công bố mức thi công mà cơ quan Giao thông vận tải
địa phương cần định ra mức để áp dụng cho địa phương của mình, thì áp dụng theo
đúng phương pháp đã định trong bản quy tắc này mà xác định.
Điều
32.
– Trong khi chưa quy định được cụ thể những mức thuộc phạm vi từng cấp xét
duyệt và quản lý, thì các cấp là các đơn vị cơ sở tạm thời cứ việc theo phương
pháp định trong bản quy tắc này mà xác định và sử dụng, sau khi được cơ quan
quản lý cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều
33.
– Trong thời gian sử dụng, các mức nói chung không được sửa đổi, nhưng nếu gặp
một trong những trường hợp sau đây có ảnh hưởng lớn tới việc định mức kỹ thuật
lao động thì, mặc dù những mức đó chưa đến định kỳ sửa đổi, thủ trưởng và hội
đồng định mức ở đơn vị có quyền xét, điều chỉnh lại và tùy theo mức đó thuộc
cấp nào định thì báo cáo cấp đó biết để thẩm tra lại.
- Khi có sự thay đổi
về các tổ chức sản xuất hay tổ chức lao động.
- Máy móc thiết bị,
dụng cụ hoặc quá trình tác nghiệp kỹ thuật thay đổi.
- Kỹ thuật chế biến
sản phẩm hay quy cách nguyên vật liệu thay đổi.
- Khi biểu đồ vận
hành thay đổi, hoặc phương pháp làm việc ở trên xe tàu thay đổi.
- Mức đa số công nhân
đề nghị sửa đổi.
Điều
34.
– Khi các mức kỹ thuật lao động đã được xét duyệt và đem áp dụng, đơn vị cần
công bố cho công nhân biết trước ít nhất là 5 ngày, và công tác những biện pháp
cần thiết để tạo mọi điều kiện cho công nhân mau chóng đạt được mức, đặc biệt
chú trọng phổ biến những kinh nghiệm tiền tiến để công nhân nắm vững và thực
hiện. Trong cả quá trình lãnh đạo thực hiện mức, các bộ môn có liên quan căn cứ
vào nhiệm vụ của mình tích cực đảm bảo cho công nhân thực hiện mức mới được
tốt.
Điều
35.
- Để quán triệt định mức và quản lý mức kỹ thuật lao động trong các ngành hoạt
động của Bộ, các cấp phải định kỳ phân tích toàn bộ tình hình thực hiện mức,
tìm ra những nguyên nhân không đạt được mức và có biện pháp kịp thời giải
quyết, đồng thời cũng tìm ra những nguyên nhân vượt mức của công nhân tiền
tiến, đúc kết thành kinh nghiệm để phổ biến làm cho mọi người công nhân đều đạt
được mức và vượt mức quy định. Cụ thể là:
- Định kỳ hàng tháng
một lần, các đơn vị cơ sở phân tích toàn bộ tình hình thực hiện mức trong đơn
vị của mình, đề ra biện pháp để đẩy mạnh mức lên, và gửi tài liệu đã phân tích
lên cấp xét duyệt mức của đơn vị mình để thẩm tra.
- Định kỳ ba tháng
một lần, các Cục, Viện, Công ty công trình, các cơ quan Giao thông vận tải phân
tích toàn bộ tình hình thực hiện các mức trong ngành sản xuất của mình, có biện
pháp giúp đỡ các cơ sở làm tốt công tác định mức và quản lý mức kỹ thuật lao
động. Những tài liệu phân tích các Cục, Viện, Công ty Công trình, cơ quan Giao
thông vận tải địa phương gửi về cấp trên trực tiếp thẩm tra; Cục, Viện, Công ty
công trình thuộc Bộ thì gửi về Vụ Lao động tiền lương của Bộ, Cục, Viện, Công
ty đường sắt thì gửi về Vụ Nhân sự giáo dục tiền lương của Tổng cục đường sắt.
- Định kỳ ba tháng
một lần, Tổng cục đường sắt phân tích toàn bộ tình hình thực hiện các mức ở
trong ngành mình và gửi tài liệu phân tích về Vụ Lao động tiền lương của Bộ
thẩm tra.
Điều
36.
– Trách nhiệm của các bộ môn có liên quan:
1. Cán bộ lãnh đạo
các cấp:
Mức kỹ thuật lao động
là chỉ tiêu phấn đấu hàng ngày của công nhân. Các cấp lãnh đạo cần đặc biệt chú
trọng lãnh đạo công tác định mức, tạo mọi điều kiện cho người công nhân đạt mức
và vượt mức được dễ dàng.
Cán bộ lãnh đạo cơ sở
phải thường xuyên nghiên cứu, kiểm tra, phân tích tình hình thực hiện mức, giám
sát chặt chẽ việc áp dụng định mức. Những khuyết điểm phát hiện ra, cần phải có
những phương sách có hiệu quả để sửa chữa và cải tiến.
Chức phó phụ trách kỹ
thuật các cấp có trách nhiệm trực tiếp phụ trách công tác này.
2. Công đoàn:
Định mức kỹ thuật lao
động là một công tác kỹ thuật rất tỉ mỉ, có tính chất quần chúng. Muốn làm được
tốt, phải có sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia đầy đủ của Công đoàn.
Trong việc xác định
mức, sửa đổi mức, Công đoàn cần phối hợp với các bộ môn định mức, kỹ thuật cùng
làm, nhất là trong việc nghiên cứu, thực hiện các biện pháp cần thiết để không
ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần làm chủ của công nhân, mở rộng
phong trào thi đua vượt mức trong đơn vị.
3. Bộ môn Lao động
tiền lương:
Công tác định mức kỹ
thuật lao động do bộ môn lao động tiền lương các cấp phụ trách, có sự kết hợp
chặt chẽ với các bộ môn khác, nhất là bộ môn kỹ thuật và bộ môn lao động tiền
lương của công đoàn.
Những nơi khối lượng
công tác định mức nhiều phải có kỹ thuật viên định mức kỹ thuật chuyên trách.
Cán bộ định mức không
những phải nắm vững và thực hiện đúng quy tắc định mức kỹ thuật lao động mà còn
phải có nhiều kinh nghiệm hiện trường, có trình độ kỹ thuật nhất định, có tinh
thần trách nhiệm và tinh thần nhẫn nại trong công tác.
4. Bộ môn kỹ thuật:
Bộ môn kỹ thuật có
trách nhiệm xác định quá trình tác nghiệp hợp lý và chỉ đạo quán triệt.
Quá trình xây dựng và
quán triệt định mức kỹ thuật lao động cũng là quá trình cải tiến các tổ chức kỹ
thuật. Do đó bộ môn định mức và bộ môn kỹ thuật cần hợp tác chặt chẽ với nhau,
cùng nghiên cứu, phân tích các tài liệu tả thực ngày công tác, khảo sát thời
gian tác nghiệp công việc, xác định các mức kỹ thuật lao động.
Hai bên cung cấp cho
nhau những số liệu cần thiết về quá trình tác nghiệp, quy trình, quy tắc kỹ
thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật, khả năng thiết bị, tiêu chuẩn nguyên vật liệu, sáng
kiến mới có liên quan đến việc định mức. Hai bên cùng có trách nhiệm theo dõi
tình hình thực hiện mức, tìm ra biện pháp giúp đỡ những công nhân không đạt
được mức, tổng kết những kinh nghiệm tiền tiến để kịp thời phổ biến rộng rãi
trong công nhân.
5. Các bộ môn khác:
Các bộ môn khác, căn
cứ vào phạm vi nhiệm vụ của mình để phối hợp nghiên cứu và thực hiện các biện
pháp cần thiết tạo điều kiện thuận tiện cho việc xây dựng và quán triệt định
mức kỹ thuật lao động được tốt.
Ban hành kèm theo
Quyết định số 204-LĐ ngày 12 tháng 02 năm 1962.