BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
95-TC/CN
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 11 năm 1993
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 95-TC/CN NGÀY 11/11/1993 HƯỚNG DẪN BỔ
SUNG MỘT SỐ ĐIỂM VỀ CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. VỀ VIỆC SỬ
DỤNG VỐN ĐỂ THAM GIA CÁC LIÊN DOANH LIÊN KẾT KINH TẾ
- Các đơn vị kinh tế quốc doanh
khi sử dụng vốn NSNN hoặc vốn tự bổ sung để:
1. Liên doanh với các đơn vị kinh
tế trong nước: phải được sự đồng ý của cơ quan chủ quản cấp trên và phải báo
cáo với cơ quan Tài chính cùng cấp;
2. Liên doanh với các tổ chức
kinh tế nước ngoài tại Việt Nam: phải được sự đồng ý của cơ quan chủ quản cấp
trên và cơ quan Tài chính cùng cấp.
Trong trường hợp khi tham gia
liên doanh, doanh nghiệp dùng tài sản (trang thiết bị, nhà cửa v.v...) đã được
đánh giá lại theo cơ chế giá thị trường để góp vốn thì trên sổ sách kế toán của
doanh nghiệp cũng phải được điều chỉnh lại cho đúng với giá cả đã được đánh giá
lại;
3. Liên doanh với các tổ chức
kinh tế ngoài nước hoặc thành lập các xí nghiệp 100% vốn ngoài lãnh thổ Việt
Nam, phải được cơ quan chủ quản cấp trên và cơ quan Tài chính cùng cấp đồng ý.
4. Mua cổ phần trong các Công ty
cổ phần hoặc góp vốn thành lập các Công ty trách nhiệm hữu hạn phải được Thủ tướng
Chính phủ đồng ý.
- Trong các trường hợp này các
đơn vị kinh tế vẫn phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ tài chính hiện hành của
Nhà nước và chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan chủ quản và các cơ quan Tài
chính.
- Các đơn vị kinh tế quốc doanh
có vốn góp tham gia liên doanh với nước ngoài theo giấy phép đầu tư hoặc đưa vốn
ra nước ngoài để kinh doanh, hoặc tham gia liên doanh trong nước theo quyết định
của Bộ chủ quản hoặc UBND tỉnh, thành phố, bằng nguồn vốn ngân sách hoặc coi
như ngân sách cấp, hoặc nguồn vốn tự bổ sung, đều phải có trách nhiệm báo cáo
thường kỳ (quý và năm) với cơ quan chủ quản cấp trên và cơ quan tài chính cùng
cấp về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong liên doanh, việc bảo
toàn và hiệu quả sử dụng vốn đã góp vào liên doanh, hoặc đưa ra nước ngoài sử dụng.
Trong các báo cáo quyết toán
hàng năm của các doanh nghiệp Nhà nước có vốn góp tham gia liên doanh phải có
phần giải trình về các nội dung nói trên và được duyệt y cùng với việc duyệt
quyết toán hàng năm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà nước có vốn góp liên
doanh phải chịu sự kiểm tra và giám sát của các cơ quan chủ quản cấp trên và cơ
quan tài chính về các hoạt động liên doanh của mình và không được trì hoãn các
báo cáo định kỳ với lý do các bên tham gia liên doanh không thực hiện.
Trên đây, Bộ Tài chính hướng dẫn
một số điểm về hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trong các liên doanh liên kết
kinh tế trong và ngoài nước. Sau khi ban hành chính thức Luật doanh nghiệp Nhà
nước sẽ có hướng dẫn bổ sung và hoàn chỉnh. Các trường hợp doanh nghiệp đã sử dụng
vốn trái với qui định của Thông tư này thì doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan chủ
quản cấp trên và cơ quan tài chính để có biện pháp xử lý theo từng trường hợp cụ
thể.
II. VỀ VIỆC SỬ
DỤNG CÁC KHOẢN THU DO NHƯỢNG BÁN, THANH LÝ TSCĐ ĐỂ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI DÂY TRUYỀN
CÔNG NGHỆ, MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
Thông tư số 82 TC/CN ngày
31/12/1991 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn :
"Do yêu cầu áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đổi mới mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng và
phát triển sản xuất, doanh nghiệp được chủ động thực hiện việc đổi mới thay thế
TSCĐ, kể cả những tài sản cố định chưa hết thời hạn khấu hao trên nguyên tắc: bảo
toàn được vốn, sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn, không nhằm mục đích mua đi bán
lại chênh lệch giá để ăn chia vào vốn".
Quyết định số 332/HĐBT ngày
23/10/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về bảo toàn và phát triển
vốn của doanh nghiệp đã qui định: "Số tiền nhượng bán, thu hồi do thanh lý
TSCĐ phải gửi vào Ngân hàng Đầu tư và phát triển và chỉ được sử dụng để tái đầu
tư TSCĐ".
Như vậy, toàn bộ số tiền thu hồi
do nhượng bán và thanh lý TSCĐ để đầu tư thay thế đổi mới dây chuyền công nghệ,
mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải gửi vào
Ngân hàng Đầu tư và phát triển để sử dụng theo đúng mục đích. Nghiêm cấm các
doanh nghiệp lấy chênh lệch giá giữa giá trị còn lại của TSCĐ hạch toán trên sổ
sách và giá thực bán được đưa vào lãi để ăn chia.
Chỉ hạch toán vào lợi tức khác
như Luật thuế lợi tức đã quy định (tại Điều 8, Chương II Luật
thuế lợi tức) đối với các trường hợp có lãi do mục đích kinh doanh mua bán
TSCĐ để thu lãi (tại các đơn vị kinh doanh mua bán vật tư tài sản) không nhằm mục
đích đổi mới thay thế thiết bị đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng và phát
triển sản xuất tại các đơn vị đó.
Trường hợp nhượng bán, thanh lý
TSCĐ là nhà cửa, kho tàng có quan hệ đến giá trị sử dụng của đất đai thì phần
giá trị riêng của nhà cửa kho tàng được xử lý theo các qui định hiện hành như
các TSCĐ khác. Riêng phần giá trị sử dụng của đất đai là tài sản quốc gia và
thuộc vốn NSNN áp dụng theo các qui định riêng hiện hành của Nhà nước về đất
đai.
III. VỀ VIỆC
SỬ DỤNG CÁC KHOẢN LÃI TIỀN VAY VÀ TIỀN GỬI
1. Trong đầu tư XDCB.
- Lãi về tiền vay NH và vay khác
để đầu tư XDCB theo luận chứng đã được duyệt (do A vay) phát sinh trong quá
trình đầu tư (chưa đưa công trình và SX và chưa có sản phẩm) thì được tính luôn
toàn bộ vào giá trị công trình. Không phân biệt mức lãi vay cao hay thấp.
- Khi công trình đã được đưa vào
sử dụng thì lãi tiền vay ngân hàng về đầu tư được tính vào giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp.
Còn trường hợp lãi tiền vay khác
của tập thể, cá nhân hoặc các tổ chức, doanh nghiệp khác (ngoài ngân hàng) thì
chỉ tính vào giá thành sản phẩm phần lãi tương đương với mức lãi vay của ngân
hàng (theo lãi suất vay trong hạn). Phần chênh lệch cao hơn (nếu có) so với mức
lãi suất vay của ngân hàng được trừ vào lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp sau
khi nộp đủ thuế lợi tức.
- Trong quá trình đầu tư nếu bên
A có tiền gửi ngân hàng về đầu tư và có phát sinh lãi tiền gửi thì số lãi đó
không thuộc diện nộp thuế lợi tức và được bổ sung nguồn vốn đầu tư tương ứng và
quyết toán với cơ quan tài chính khi hoàn thành công trình.
- Lãi tiền vay ngân hàng và vay
khác, lãi tiền gửi ngân hàng của các đơn vị kinh doanh xây lắp (bên B) trong
quá trình đầu tư áp dụng như đối với các doanh nghiệp qui định ở Mục
"2" dưới đây :
2. Trong hoạt động sản xuất -
kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước.
- Lãi phải trả về tiền vay ngân
hàng được tính vào giá thành sản phẩm và phí lưu thông, kể cả các đơn vị kinh
doanh xây lắp. Riêng giá dự toán các công trình XDCB thì theo qui định hiện
hành về việc hạch toán khoản lãi này.
- Ngược lại lãi thu được về tiền
gửi ngân hàng: được trừ giảm giá thành và phí lưu thông.
- Toàn bộ lãi thu được về tiền gửi
ngân hàng về đầu tư XDCB được bổ sung vào các nguồn vốn đầu tư XDCB tương ứng
và quyết toán nguồn vốn này với cơ quan tài chính.
- Toàn bộ lãi phải trả về tiền
vay của tổ chức tập thể và cá nhân (kể cả của các doanh nghiệp Nhà nước khác
ngoài Ngân hàng nếu được phép) để phục vụ sản xuất kinh doanh tính vào giá
thành sản phẩm và phí lưu thông.
Các doanh nghiệp Nhà nước không
phải là ngân hàng hiện nay chưa có qui định cho phép dùng vốn SX-KD để cho vay
lấy lãi. Nhưng trường hợp những đơn vị nào được phép sử dụng một phần vốn nhàn
rỗi để cho vay thì lãi thu được phải tính vào thu nhập của doanh nghiệp và chịu
thuế lợi tức.
Riêng đối với các Ngân hàng Quốc
doanh hạch toán trên lãi và trả lãi thì áp dụng theo những qui định của chế độ
quản lý tài chính đối với ngành Ngân hàng.
- Lãi phải chia cho những đơn vị
tham gia liên doanh, liên kết, lãi phải trả theo các cam kết chia lãi của doanh
nghiệp được lấy từ lợi tức để lại XN để trả (sau khi nộp thuế lợi tức).
- Lãi thu được của doanh nghiệp
do có vốn góp liên doanh liên kết nếu bên liên doanh đã nộp thuế lợi tức và
doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thu nộp ngân sách về khoản vốn góp liên doanh
như bảo toàn vốn và nộp tiền sử dụng vốn... thì được để lại doanh nghiệp trích
lập các quỹ xí nghiệp theo chế độ qui định.
- Các khoản phải trả về tiền phạt
vi phạm hợp đồng và các khoản tiền phạt khác đều phải trừ vào lợi nhuận để lại
xí nghiệp (sau khi nộp thuế lợi tức). Ngược lại các khoản thu được của DN về tiền
phạt phải được tính vào phần lợi nhuận chung của DN (coi như lợi tức phụ) để
tính thuế lợi tức. Khoản thu này không tính vào doanh thu của doanh nghiệp.
3. Về việc hạch toán kế toán các
khoản lãi tiền vay và tiền gửi nói trên: Có thông tư hướng dẫn riêng.
IV. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Thông tư này áp dụng cho tất cả
các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và địa phương và có hiệu lực thi hành từ
ngày ký.
Những qui định trước đây trái với
Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có khó khăn vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để xem xét giải
quyết.