BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
3936/TM-XNK
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2000
|
CÔNG VĂN
CỦA BỘ THƯƠNG MẠI SỐ 3936/TM-XNK NGÀY 14 THÁNG 11 NĂM 2000 VỀ
VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT - NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001 - 2010
Kính gửi:
|
- Các đ/c Bộ trưởng và Thủ trưởng
các ngành liên quan thuộc Chính phủ
- Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ
|
Thi hành Chỉ thị số
22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển
xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại xin trân
trọng gửi tới các đồng chí bản tóm tắt chiến lược đã được Chính phủ thông qua để
làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình cụ thể về xuất khẩu trong 10 năm tới.
Bộ Thương mại trân trọng đề nghị
các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức truyền đạt
những nội dung cơ bản của Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ
2001-2010 tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, quan tâm chỉ đạo xây dựng
chương trình, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu của ngành, địa phương mình để góp phần
thực hiện thành công Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng
Chính phủ.
BỘ
THƯƠNG MẠI
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Hà
nội, ngày 11 tháng 11 năm 2000
BẢN TÓM TẮT
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010
Chiến lược phát triển xuất - nhập
khẩu thời kỳ 2001-2010 được xây dựng nhằm cụ thể hóa những định hướng nêu trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng đang được thảo luận, đề ra những
định hướng và biện pháp cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Chiến lược xuất - nhập khẩu được
trình bày thành 3 phần. Phần thứ nhất đưa ra những đánh giá tổng quát về hoạt động
xuất - nhập khẩu trong 10 năm trước. Phần thứ hai đưa ra những định hướng lớn
cho công tác xuất - nhập khẩu. Phần thứ ba đề xuất các chính sách và giải pháp
thực hiện Chiến lược.
Phần thứ
nhất:
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT HOẠT
ĐỘNG XUẤT - NHẬP KHẨU THỜI KỲ 1991-2000
I. NHỮNG
THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Đã đạt được mục tiêu đề ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1991-2000: kim ngạch xuất khẩu
năm 2000 dự kiến đạt 13,5 tỷ USD, gấp 5,6 lần kim ngạch năm 1990 (2,4 tỷ USD).
Nhịp độ tăng trưởng bình quân 18,4% năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP khoảng
2,6 lần (GDP tăng bình quân 7,6%/năm).
2. Cơ cấu xuất khẩu đã được cải
thiện theo hướng "tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm
thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định".
Tỷ trọng sản phẩm chế biến đã tăng từ 8% vào năm 1991 lên khoảng 40% vào năm
2000. Năm 1991 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu
thô, thủy sản, gạo và hàng dệt may; nay có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao
su, điều, giày dép, than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả. Về một số mặt
hàng, nước ta đã chiếm lĩnh vị trí cao: gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, cà
phê đứng thứ hai, hạt tiêu và hạt điều đứng thứ ba.
3. Việc thực hiện chủ trương
"phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là hoạt động du lịch"
có nhiều tiến bộ. Khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam đã tăng từ 250 ngàn lượt
người vào năm 1991 lên khoảng 2 triệu lượt người vào năm 2000, doanh thu đạt
khoảng 450 triệu USD. Lao động ở nước ngoài, tính đến năm 2000 có khoảng 9 vạn
người, đem lại khoảng 500 triệu USD thu nhập hàng năm. Các dịch vụ khác như
ngân hàng, hàng không, viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục.. thu được khoảng 1
tỷ USD vào năm 2000.
4. Nhập khẩu, về cơ bản, đã
"phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy
nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cần thiết của
đời sống". Tư liệu sản xuất hiện nay chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu,
trong đó 26-27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu
dùng chỉ chiếm khoảng 5% (năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt
đối lẫn tương đối: năm 1996 còn nhập siêu gần 4 tỷ USD, tới năm 1999 chỉ còn
khoảng 0,2 tỷ USD; tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm từ 33% trong kỳ
1991-1995 xuống còn 18% trong kỳ 1996-2000.
5. Đã vượt qua được sự khủng hoảng
thị trường vào đầu những năm 90 do chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị xóa bỏ;
đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận và về cơ bản thực hiện được chủ
trương "đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế... tích cực
thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới".
Nay nước ta có quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ trong đó
đã ký Hiệp định Thương mại với 61 nước. Chủ trương "gia nhập các tổ chức
và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện" đã được thực
hiện bằng việc gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và trở thành
quan sát viên WTO (1995).
6. Chính phủ đã đổi mới một cách
cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm
dần hàng rào phi thuế hạn chế cơ chế "xin cho", giảm bớt sự can thiệp
của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trò của
các công cụ vĩ mô như thuế, lãi suất, tỷ giá. Chính phủ cũng đã dành sự quan
tâm đặc biệt cho xuất khẩu thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ
giá, lập Quỹ Hỗ trợ, Quỹ thưởng.... Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện;
trong đó đã thông qua được Luật Thương mại.
Nhìn chung lại, trong 10 năm
qua, lĩnh vực suất - nhập khẩu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, về cơ bản đã
thực hiện được những chủ trương nêu ra trong Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, thúc đẩy sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu ngoại
tệ để trang trải nhu cầu nhập khẩu và tích lũy.
Những thành tựu trên bắt nguồn từ
những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, công cuộc đổi mới đã
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó
thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất - nhập khẩu.
Hai là, xuất khẩu được đặt thành
một nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn liền với lưu thông, xuất khẩu; các cơ chế
chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất,
các địa phương và các thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.
Ba là, chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận, mở rộng thị trường
xuất - nhập khẩu. Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh
doanh xuất nhập khẩu (từ 4% năm 1994 lên 22,3% năm 1999, nếu kể cả dầu khí thì
lên tới 35%).
II. NHỮNG VẤN
ĐỀ TỒN TẠI
1. Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ
so với các nước trong khu vực; bình quân tính theo đầu người khoảng 175 USD năm
2000, trong khi Malaysia năm 1996 đã đạt mức 3700 USD, Thái Lan 933 USD và
Philippin là 285 USD. Riêng Trung Quốc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 195 tỷ
USD bình quân đầu người 163 USD.
2. Việc chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, ngành hàng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm
làm ra không tiêu thụ được. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do
giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường.
Đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ chưa thỏa
đáng. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số
sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có
hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa
so với tiềm năng.
3. Nhập khẩu chưa cải thiện được
tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành; ít tiếp cận được với công nghệ
nguồn. Tình trạng nhập siêu lớn tuy đã được khắc phục nhưng chưa thật vững chắc.
4. Sự hiểu biết về thị trường
ngoài còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh
nghiệp. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp còn ỷ lại vào Nhà nước, thụ động chờ
khách hàng. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung
gian.
5. Việc hội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới còn không ít lúng túng. Cho tới nay chưa hình thành được chiến
lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn.
Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước và Nhà nước cũng
chưa đưa ra được lộ trình giảm dần sự bảo hộ.
6. Công tác quản lý nhà nước về
thương mại tuy đã có nhiều sự cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối
hợp giữa các Bộ, ngành địa phương, đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung
chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Còn thiếu cán bộ quản lý có trình độ.
Những tồn tại trên bắt nguồn từ
những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, trình độ phát triển kinh
tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, từ năm 1997 lại
chịu tác động không ít của cuộc khủng hoảng trong khu vực. Toàn bộ tình hình đó
tác động tiêu cực tới hoạt động xuất - nhập khẩu.
Hai là, nền kinh tế nước ta trên
thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường và mới tiếp cận với thị trường toàn cầu
trong khoảng mươi năm trở lại đây, trình độ cán bộ còn chưa theo kịp nhu cầu
nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ.
Ba là, còn lúng túng trong việc
đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, nhiều chủ trương chính
sách đã được ban hành nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, kém hiệu quả.
Phần thứ
hai:
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT
- NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010
I. TÌNH
HÌNH TRONG NƯỚC, THẾ GIỚI VÀ NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU:
Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế
và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị
trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp,
GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400 USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ
công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc
gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm.
Trên bình diện quốc tế, khoa học
và công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội
thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát
triển mạnh. Khái niệm thương mại được mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình
của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm "mềm" của nền sản xuất
dựa vào tri thức. Mức độ phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thương mại
điện tử tăng nhanh, qua đó thay đổi hẳn phương thức kinh doanh (theo số liệu của
UNCTAD thì năm 1995, giá trị thương mại điện tử mới có 100 triệu USD thì năm
1999 đã là 180 tỷ USD và năm 2002 sẽ lên tới khoảng 1.234 tỷ USD).
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực
hóa với các mặt tích cực và tiêu cực của nó sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự
hợp tác - đấu tranh phức tạp giữa các đối tác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng vừa
qua cho thấy kinh tế thế giới và khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc.
Không loại trừ khả năng sẽ còn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài
chính mới.
Trong nền kinh tế thế giới, các
nước công nghiệp phát triển vẫn giữ vị trí áp đảo. Mỹ sẽ tiếp tục là siêu cường
hàng đầu, vừa cạnh tranh gay gắt, vừa tìm cách dung hòa lợi ích với Tây Âu, Nhật,
Nga, Trung Quốc, và ở một chừng mực nào đó là Ấn Độ, sẽ chiếm vị trí ngày càng
lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. Châu Á - Thái Bình Dương đang hồi
phục nhanh chóng sau khủng hoảng, tiếp tục là một thị trường tiêu thụ rộng lớn
và cùng châu Âu hình thành không gian kinh tế Á - Âu (Eurasia).
Nhìn chung lại, vào thập kỷ đầu
của thế kỷ XXI, hoạt động xuất - nhập khẩu của nước ta có những thuận lợi và
khó khăn chủ yếu sau:
1. Về thuận lợi:
Như trên đã nói, "thế"
và "lực" của nước ta đã khác trước. Các nguồn lựa như lao động, đất
đai, tài nguyên... còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng được cải thiện hơn, tạo thuận
lợi cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với bên ngoài, ta đã có quan
hệ kinh tế - thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc
tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế
lớn. Quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho ta mở rộng thị trường để phát triển
kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại.
2. Về khó khăn, thách thức:
- Nước ta vẫn là một nước nghèo
và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới chỉ có thể đưa GDP lên gấp đôi. Cơ cấu sản
xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu
so với chiều hướng phát triển của thế giới. Thực trạng đó ảnh hưởng tiêu cực tới
quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động xuất - nhập khẩu.
- Năng lực cạnh tranh của quốc
gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải nhập cuộc đua
tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới. Trình độ của đội
ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và công tác tham mưu về chiến lược,
chính sách còn bất cập.
- Kinh tế thế giới và khu vực, đặc
biệt là tình hình tài chính - tiền tệ - tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông
sản, nhiên liệu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo, có thể
tác động tiêu cực tới nền kinh tế và kinh doanh xuất - nhập khẩu của nước ta.
Nhìn toàn cục, nước ta đứng trước
nhiều thuận lợi hơn so với khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, không thể xem
thường các thách thức, khó khăn như đã trình bày trên.
II. MỤC
TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT - NHẬP KHẨU:
Hoạt động xuất - nhập khẩu trong
10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung sẽ được thông qua tại Đại hội
lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm
chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức
hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hóa thị
trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế
giới.
Để đạt các mục tiêu trên, cần nắm
vững các quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, tiếp tục kiên trì chủ
trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản
xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ;
Hai là, chủ động hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với
trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia;
Ba là, lấy việc phát huy nội lực,
đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng
như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với
việc mở rộng kinh doanh xuất - nhập khẩu, hội nhập quốc tế.
Bốn là, gắn kết thị trường trong
nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức
mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài.
Năm là, kiên trì chủ trương đa dạng
hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
III. CÁC CHỈ
TIÊU CỤ THỂ:
A. VỀ QUY
MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG
Các chỉ tiêu xuất - nhập khẩu một
phần quan trọng tùy thuộc vào chỉ tiêu chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới
GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm phải tăng khoảng 7,2%); giá trị sản lượng
nông nghiệp tăng khoảng 4%/năm, vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu
tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm
chăn nuôi tăng từ 18,6% lên 20-25%, thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá
trị gia tăng của công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8-9%, đến năm 2010 công
nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị
sản xuất công nghiệp.
Dự thảo Chiến lược còn dự kiến
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trường GDP, tức là khoảng
14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD
vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch
khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu
(các chỉ tiêu này sẽ còn được điều chỉnh).
Việc gia tăng xuất khẩu
14,4%/năm là nhiệm vụ không đơn giản vì:
- Xuất phát điểm của thời kỳ
2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4 tỷ
USD). Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn
chế mang tính cơ cấu, thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ
USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao độ trong công tác xuất nhập khẩu.
- Trong 10 năm qua, khối doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần khá lớn cho tăng trưởng xuất
khẩu, mở ra những mặt hàng mới và khai phá các thị trường mới. Kể từ năm 1998,
đầu tư nước ngoài vào nước ta có chiều hướng chững lại và giảm dần. Hiện nay
chưa rõ khả năng có chặn đứng được chiều hướng này không. Nếu chiều hướng đó
còn tiếp diễn thì có thể ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu,
chí ít là trong những năm đầu của thời kỳ 2001-2010.
Tuy nhiên, yêu cầu tăng nhanh quy
mô và tốc độ xuất khẩu là một nhiệm vụ cấp thiết đối với nền kinh tế nước ta. Một
mặt nó khắc phục nguy cơ tụt hậu không chỉ đối với các nước phát triển trên thế
giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của
Malaysia cao hơn ta khoảng 6 lần, Thái Lan hơn ta khoảng 4,5 lần. Nếu ta phấn đấu
đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD và với mức tăng trưởng
như hiện nay của hai nước thì khoảng cách đó có thể rút ngắn xuống bằng 1/3
Malaysia và 1/2 Thái Lan. Mặt khác, nó còn tạo ra nguồn ngoại tệ cân đối nhập
khẩu, tăng tích lũy ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của thế giới
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm cho người
lao động.
Dựa trên kinh nghiệm 10 năm qua
kết hợp với những dự báo về sản xuất và thị trường trong 10 năm tới và trên cơ
sở phát huy nội lực, có tính đến sự thay đổi có tính đột biến, Bộ Thương mại đề
xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau:
1. Về xuất khẩu:
a) Xuất khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời
kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ
USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn
4 lần 2000.
b) Xuất khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ
USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp
hơn 4 lần;
c) Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm
2005 và 62,7 tỷ USD vào năm 2010 (hơn 4 lần);
2. Về nhập khẩu:
Do nước ta còn đang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên
chưa thể xóa bỏ được ngay tình trạng nhập siêu. Tuy nhiên cần phải rất tiết kiệm
ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết
bị công nghệ mới và sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản
xuất để giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu,
kiềm chế được nhập siêu và giảm dần tỷ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất
nhập và xuất siêu. Theo hướng đó dự kiến nhập khẩu như sau:
a) Nhập khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong
thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ
2006-2010 là 13%.
- Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng
14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu
112 tỷ USD) và 53,7 tỷ USD vào năm 2010.
b) Nhập khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ
USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.
c) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ:
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và
57,14 tỷ USD năm 2010.
Như vậy, trong 5 năm đầu
(2001-2005) nhập siêu về hàng hóa giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và
cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD; 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến
năm 2008 cân bằng xuất nhập hàng hóa phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm
2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất nhập khẩu
và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.
Tuy nhiên, như trên đã nói, tình
hình kinh tế khu vực và thế giới còn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường; do đó cần
đề phòng những tình huống bất trắc nảy sinh.
B. VỀ CƠ CẤU
HÀNG HÓA XUẤT - NHẬP KHẨU VÀ CƠ CẤU DỊCH VỤ
1. Cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu:
Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa trong
10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau:
- Trước mắt huy động mọi nguồn lực
hiện có thể có để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ;
- Đồng thời cần chủ động gia
tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao,
chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng
hàng thô;
- Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần
đáp ứng nhu cầu của từng thị trường;
- Rất chú trọng việc gia tăng
các hoạt động dịch vụ.
Tiếc rằng, các mặt hàng xuất nhập
khẩu mới được đề cập chủ yếu ở trạng thái "tĩnh", chưa thể dự báo được
những mặt hàng sẽ xuất hiện trong tương lai do thị trường mách bảo và năng lực
sản xuất của ta.
Theo các hướng nói trên, chính
sách các nhóm hàng có thể hình dung như sau:
1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu:
Hiện nay nhóm này, với hai mặt
hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu
của nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô
xuất khẩu sẽ giảm dần. Dự kiến vào năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng
gần 12 triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Tới năm 2010 có hai phương án, tùy
thuộc vào lượng khai thác:
- Nếu khai thác 14 - 16 triệu tấn
thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2 - 4 triệu tấn;
- Nếu khai thác 20 triệu tấn thì
có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn.
Dù theo phương án nào thì kim ngạch
dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010 (theo phương án 1 thì tỷ trọng dầu
thô trong giá trị xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ còn dưới 1% so với 22% hiện nay;
theo phương án 2 thì tỷ lệ đó sẽ còn khoảng 3%). Thị trường xuất khẩu chính vẫn
là Ô-xtrây-lia, Singgapore, Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa Kỳ.
Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ
đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm
2010 sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu và
khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu
xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn
hiện nay; nếu tính theo thời giá hiện nay thì sẽ giảm khoảng 850-900 triệu USD.
Về than đá, dự kiến nhu cầu nội
địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể
lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng sẽ chỉ
dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng
120-150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến
do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi
trường nên cầu có xu hướng giảm. Nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng
duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu... và tăng cường
thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc...
Khả năng tăng xuất khẩu các loại
khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm
2010, quặng apatit khai thác ra chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất
phân bón, chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. Khả năng sản xuất và xuất khẩu
alumin sẽ tùy thuộc vào việc triển khai dự án (nếu có thì chỉ từ sau 2005). Quặng
sắt khó có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn bởi nhu cầu trong nước sẽ tăng mạnh,
khả năng khai thác quặng Thạch Khê còn chưa rõ nét. Đất hiếm tuy có nhưng trữ
lượng thương mại không nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công nghệ chế
biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác trữ lượng đều
không đáng kể.
Như vậy, tới năm 2005, nhóm
nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu
(2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ
giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 500 triệu USD) hoặc 3,5% (khoảng 1,75 tỷ USD),
tùy theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để
thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
1.2. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản:
Hiện nay nhóm này đang chiếm gần
25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè,
rau quả, thủy sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng
khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu
những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và
đánh bắt có hạn...) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng
trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó,
nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy,
dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn
22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tương đương 8-8,6 tỷ USD)
vào năm 2010.
Hướng phát triển chủ đạo của
nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi
ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá
trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống
và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển... để tạo ra
những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.
Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ
là thủy sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường
thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Năm 1985 xuất khẩu thủy sản thế giới
mới đạt 17,2 tỷ USD, tới năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi
năm trên 13%. Điều này liên quan tới xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu
thụ thịt, tăng tiêu thụ thủy sản. Với sản lượng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn thì
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2-3,5 tỷ
USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường
chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc... Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng ổn
định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa
bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát triển những mặt
hàng có kim ngạch cao như tôm, nhuyễn thể. Công nghệ sau thu hoạch cũng cần có
sự quan tâm thỏa đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực
phẩm của sản phẩm xuất khẩu.
Về gạo, do nhu cầu thế giới
tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú
trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ,
giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều
lắm ta sẽ chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4 - 4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi
năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu tư để cải thiện
cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới (như Trung
Đông, Châu Phi, Nam Mỹ) và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines...
thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều
tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Về nhân điều còn có thể tăng kim
ngạch từ 115 triệu USD năm 2000 lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào
năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng (một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ
tăng bình quân 7%/năm trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200.000 tấn, giá xuất
khẩu cũng tăng, từ 3.799 USD/tấn năm 1994 lên 5.984 USD/tấn), vả lại tiềm năng
của nước ta còn lớn. Thị trường chủ yếu là Mỹ, Eu, Ô-xtrây-lia, Trung Quốc.
Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới
khoảng 200.000 tấn/năm, giá cả dao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất,
gia tăng sản lượng, từ đó có khả năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với
160 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc,
Trung Đông.
Về các loại rau, hoa và quả
khác, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999
phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa
và quả sẽ được đưa lên khoảng 1,2 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung Quốc,
Châu Âu. Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thỏa đáng vào các khâu
như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch... thì thậm chí
có thể thực hiện vượt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD.
Về cà-phê, do sản lượng và giá cả
phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng
và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. FAO dự báo tới năm 2005, sản lượng thế
giới sẽ khoảng 7,3 triệu tấn so với 6,3-6,6 triệu tấn hiện nay. Nếu thuận lợi,
xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu
USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ
hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè
(arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà
phê rang xay và cà phê hòa tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ,
Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về
thị trường nhưng về giá cả sẽ khó ổn định.
Với hai mặt hàng quan trọng còn
lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính
lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên
2%/năm, năm 2000 khoảng 7 triệu tấn, giá cả có xu hướng xuống thấp. Dự kiến kim
ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên
thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1,3 triệu tấn/năm; ta có tiềm năng phát
triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện
nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường
khó tính như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác
đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.
Về thịt thì hiện nay sản lượng của
nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0,7% của thế giới), chất lượng còn xa so với
nhu cầu trên thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi
thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với
yêu cầu của thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh
thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới phương thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ
sang sản xuất lớn, hiện đại. Thị trường định hướng trước mắt là Hongkong, Nga,
về lâu dài là Singapore và Nhật Bản.
Ngoài ra, một loạt sản phẩm còn
có thể phát triển để hoặc thay thế nhập khẩu hoặc góp phần xuất khẩu như cây họ
đậu, cây có dầu, tơ tằm, bông...
Đối với toàn bộ nhóm nông thủy sản
cần rất chú trọng khâu cải tạo giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ
sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể đưa thẳng tới khâu
tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
Nhìn chung lại, kim ngạch của
nhóm nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ
USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện
nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là
các mặt hàng chế biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập
khẩu trong thời gian 10 năm tới.
1.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo:
Hiện nay kim ngạch của nhóm này
đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu
vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng
40% kim ngạch xuất khẩu.
Hạt nhân của nhóm, cho tới năm
2010, vẫn sẽ là hai mặt hàng dệt may và giầy dép, là những lĩnh vực có thể thu
hút nhiều lao động. Kim ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD.
Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân
15-16%/năm. Nay đã ký được Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa kỳ thì mục tiêu
tăng trưởng trên là khả thi. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục mở thêm thị trường
Trung Đông và Đông Âu. Sau các thỏa thuận đạt được với Hoa Kỳ và EU, Trung Quốc
sẽ trở thành thành viên của WTO; khả năng cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc,
trong đó có dệt may và giày dép, vốn đã rất mạnh, sẽ được nâng lên do được hưởng
những ưu đãi mới trên các thị trường rộng lớn như Hoa Kỳ và EU, gây khó khăn
không nhỏ cho hàng hóa của ta.
Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh
xuất khẩu, hướng phát triển cơ bản của hai ngành dệt may và giày dép trong 10
năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường
Mỹ, Trung Đông và châu Đại Dương; ổn định và tăng thị phần trên các thị trường
quen thuộc như EU, Nhật Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trường phi
quota; chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hóa trên cơ sở
tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín;
chuyển mạnh sang bán FOB; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ EU,
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... để tăng cường năng lực thâm nhập trở lại
các thị trường này và đi vào các thị trường khác. Chính sách thương mại của Nhà
nước, mà cụ thể là chính sách thuế, chính sách thị trường, cần hỗ trợ đắc lực
cho tiến trình này.
Do mục tiêu kim ngạch của toàn
nhóm chế biến, chế tạo vào năm 2010 là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và giày
dép cần nỗ lực tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng
để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới.
Trước mắt, chủ yếu dựa trên cơ cấu
đầu tư và thực tiễn xuất khẩu trong những năm qua cũng như thị trường quốc tế,
có thể dự báo những mặt hàng như:
Thủ công mỹ nghệ: Kim ngạch hiện
nay đã đạt xấp xỉ 200 triệu USD. Đây là ngành hàng mà ta còn nhiều tiềm năng,
dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khơi dậy
tiềm năng thì có thể nâng kim ngạch lên 800 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD
vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trường định hướng là
EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại dương cũng là
thị trường tiềm tàng, cần nỗ lực phát triển (Bộ Thương mại đã trình Thủ tướng
Chính phủ đề án riêng về mặt hàng này).
Thực phẩm chế biến: Kim ngạch hiện
nay mới đạt 100 triệu USD, tập trung chủ yếu vào những mặt hàng không đòi hỏi
nhiều về công nghệ như bánh kẹo, sữa, mỳ ăn liền, phở ăn liền, bột ngọt, dầu thực
vật... Tiềm năng phát triển của ngành hàng này còn khá lớn bởi ở một số nước có
nhu cầu, chưa kể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá đông. Dự báo tới năm
2005 kim ngạch xuất khẩu có khả năng vượt 200 triệu USD và tới năm 2010 đạt 700
triệu USD với thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ô-xtrây-lia và
Hoa Kỳ. Trong nhóm này, cần hết sức chú trọng mặt hàng dầu thực vật bởi nước ta
là nước có tiềm năng về cây có dầu (dừa, đậu nành, vừng, lạc...). Nhà nước cần
quy hoạch lại các vùng trồng cây có dầu để tập trung nguồn nguyên liệu đủ dùng
cho các nhà máy chế biến, hạn chế dần lượng dầu nguyên liệu nhập khẩu. Trung Quốc
và Trung Đông là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với mặt hàng này.
Sản phẩm gỗ: Với thế mạnh về
nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng phát triển ở nước ta. Ngành
còn có một thuận lợi nữa là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi
năm tăng khoảng 7-8% trong suốt thời gian từ 1994 đến 1998). Sau khi chuyển hướng
sang sử dụng nguyên liệu nhập, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của ta (không kể
gỗ mỹ nghệ) đang hồi phục dần. Dự kiến đến năm 2005 có thể đạt 600 triệu USD và
tới năm 2010 đạt 1,2 tỷ USD. Để phát triển ngành này, cần có đầu tư thỏa đáng
vào khâu trồng rừng và đơn giản hóa thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất
là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.
Hóa phẩm tiêu dùng: Đây là ngành
hàng mới xuất hiện trong vài năm gần đây với hạt nhân là bột giặt, chất tẩy rửa,
mỹ phẩm... Kim ngạch hàng năm đã đạt xấp xỉ 30 triệu USD. Thị trường tiêu thụ
chính là Trung Quốc, Campuchia, I-rắc và một số nước đang phát triển. Một số lượng
nhỏ đã được xuất sang các nước ASEAN và EU. Ta hoàn toàn có khả năng phát triển
xuất khẩu những mặt hàng này. Mục tiêu kim ngạch vào năm 2005 là 200 triệu USD,
vào năm 2010 là 600 triệu USD. Thị trường chính trong thời kỳ 2001-2005 vẫn sẽ
là Trung Quốc, Campuchia, các nước ASEAN và một số nước đang phát triển; sang
thời kỳ 2006-2010 cố gắng len vào các thị trường khác như EU, Nhật Bản, Nga,
Hoa Kỳ.
Sản phẩm cơ khí, điện: Đây sẽ là
ngành hàng hoàn toàn mới trong 10 năm tới. Mặc dù kim ngạch hiện nay mới đạt
trên dưới 10 triệu USD nhưng hoàn toàn có khả năng tăng kim ngạch lên 300 triệu
USD vào năm 2005 và 1 tỷ USD vào năm 2010. Nên có chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài hướng về xuất khẩu. Trong lĩnh vực này đang có những dấu hiệu khá tích cực
(ví dụ, công ty Cadivi đã bắt đầu xuất khẩu cáp điện ra nước ngoài với khối lượng
lớn; 14 dự án sản xuất xe đạp 100% vốn Đài Loan đã được cấp giấy phép, 16 dự án
nữa đang chờ cấp giấy phép, tổng công suất khoảng 6 triệu xe/năm, xuất khẩu
80%; quạt điện, máy xay xát, động cơ... cũng đang tích cực tìm đường xuất khẩu
ra nước ngoài). Thị trường định hướng đối với xe đạp là EU và Hoa Kỳ, với các sản
phẩm khác là các nước ASEAN, Trung Đông và Châu Phi.
Sản phẩm nhựa: Kết quả xuất khẩu
sản phẩm nhựa trong những năm gần đây là đáng khích lệ. Từ chỗ đáp ứng chủ yếu
nhu cầu trong nước, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc
và các nước Nam Á như Ấn Độ, Sri Lanka. Mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ nhựa
gia dụng. Trong những năm tới, cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu chất lượng và mẫu
mã để mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có, tăng cường thâm nhập các thị
trường mới như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về sản phẩm, bên cạnh đồ nhựa gia dụng cần
chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Nếu làm được những việc
này, kim ngạch có thể đạt 200 triệu USD vào năm 2005 và 600 triệu USD vào năm
2010.
Như vậy, bên cạnh dệt may và
giày dép, trong 10 năm tới đây cần chú ý phát triển những ngành kết hợp giữa
lao động giản đơn với công nghệ trung bình mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực
phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ
khí - điện; phấn đấu đưa kim ngạch của nhóm hàng mới này lên 4,5-5 tỷ USD hoặc
hơn vào năm 2010. Có thể nói đây là khâu đột phá của xuất khẩu Việt Nam trong
những năm trước mắt (2001-2005).
1.4. Nhóm hàng vật liệu xây dựng
Nước ta có nguồn nguyên liệu dồi
dào để sản xuất vật liệu xây dựng không những có thể cung cấp đủ cho nhu cầu
trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn.
Ngành sản xuất xi măng là ngành
công nghiệp phát triển mạnh trong mấy năm gần đây, sản lượng hàng năm (symbol
177 \f "Symbol" \s 14± 13 triệu tấn) đã cung ứng đủ cho nhu cầu trong
nước. Theo chiến lược phát triển sản xuất xi măng thì các dự án phát triển xi
măng trong vài năm tới có khả năng dư thừa hàng năm khoảng từ 2-3 triệu tấn để
xuất khẩu (năm 2001 có thể xuất khẩu symbol 177 \f "Symbol" \s 14±
300.000 ngàn tấn). Tuy nhiên, do các nhà máy xi măng mới đầu tư, khấu hao lớn
nên giá thành sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh yếu hơn so với xi măng các
nước trong khu vực, do đó khâu then chốt với xi măng là hạ giá thành.
Ngành công nghiệp sản xuất gạch ốp
lát và sứ vệ sinh trong nước tuy mới ra đời nhưng đã sớm hòa nhập vào môi trường
cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Về mặt công nghệ
các nhà máy của Việt Nam nhập công nghệ tiên tiến nên chất lượng sản phẩm đạt
tiêu chuẩn ISO, hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Mặt khác, đây
là ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sử dụng tới 80-87% nguyên liệu
(đất sét, fensfat, thạch cao, bột màu, gas...) trong nước. Sứ vệ sinh của Việt
Nam đã bắt đầu có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Nga, Myanmar, Bangladesh,
Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn trong tương
lai.
Do có nguồn nguyên liệu cát tốt
để sản xuất kính, theo kế hoạch thì từ nay đến năm 2010 ngành công nghiệp kính
sẽ trở thành ngành công nghiệp vật liệu xây dựng mũi nhọn. Dự tính năm 2010
năng lực sản xuất đạt 60 triệu m2, đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước
và xuất khẩu. Hiện nay kính của Việt Nam sản xuất đã được xuất khẩu sang
Campuchia; trong tương lai cần mở rộng thêm thị trường.
1.5. Sản phẩm hàm lượng công nghệ
và chất xám cao:
Đây là ngành hàng mới xuất hiện
nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm
2000. Hạt nhân là hàng điện tử và tin học. Với xu thế phân công lao động theo
chiều sâu trên thế giới hiện nay, ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa
những mặt hàng này, trước mắt là gia công rồi tiến tới nội hóa dần. Vấn đề cốt
lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu
kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 (riêng phần mềm
Bộ Khoa học - Công nghệ và môi trường dự kiến là 350 - 500 triệu USD) và 6-7 tỷ
USD vào năm 2010 (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trường thì nhằm vào các
nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và cả các nước ĐPT (phần cứng). Cần coi
đây là khâu đột phá trong 5 năm cuối của kỳ 2001-2010.
2. Cơ cấu dịch
vụ xuất khẩu:
Lâu nay ở ta ít chú trọng tới xuất
khẩu dịch vụ, thậm chí không có số liệu thống kê một cách có hệ thống. Tuy
nhiên qua tổng hợp số liệu của các ngành, có thể sơ bộ ước tính thương mại dịch
vụ hai chiều của Việt Nam năm 2000 đạt 3,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,0 tỷ
USD và nhập khẩu đạt 1,2 tỷ USD.
Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ
bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO thì có tới 155 loại hình), bản này mới chỉ có
thể đề cập tới các loại hình dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải
hàng không, bưu chính viễn thông và dịch vụ ngân hàng.
2.1. Xuất khẩu lao động:
Trong nhiều năm qua xuất khẩu
lao động là ngành thu ngoại tệ quan trọng. Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi
năm nước ta đưa ra nước ngoài khoảng 2 vạn lao động với thời hạn hợp đồng từ
3-5 năm, riêng năm 2000 dự kiến là 3 vạn lao động. Hiện nay số người Việt Nam
đang lao động tại nước ngoài vào khoảng 9 vạn người. Với thu nhập bình quân đầu
người khoảng 5.000USD/năm, ước tính kim ngạch xuất khẩu lao động năm 2000 sẽ đạt
450 triệu USD.
Theo Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm 2005 là xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến
năm 2010 là 1 triệu lao động. Nếu thực hiện được mục tiêu này, kim ngạch dự kiến
sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD vào năm 2010.
2.2. Du lịch:
Du lịch là một ngành dịch vụ có
ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng. Trong những năm qua, ngành du lịch đã đạt được
nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên tiềm năng của ngành còn rất lớn nếu biết
khai thác và phát huy tốt những thế mạnh sẵn có. Theo Tổng cục Du lịch, dự kiến
năm 2000 sẽ có khoảng 2 triệu khách du lịch quốc tế tới Việt Nam với doanh thu
ngoại tệ khoảng 500 triệu USD.
Theo chiếu lược phát triển của
ngành thì tới năm 2005 sẽ phấn đấu thu hút được 3 triệu khách quốc tế với doanh
thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hút 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.
2.3. Vận tải biển và dịch vụ cảng,
giao nhận:
Kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực
vận tải biển năm 2000 mới chỉ đạt xấp xỉ 20 triệu USD. Hiện nay đa số các doanh
nghiệp của ta lựa chọn điều kiện giao hàng là CIF hoặc C&F đối với hàng nhập
khẩu và FOB đối với hàng xuất khẩu. Do vậy hàng năm ta phải chi một lượng ngoại
tệ khá lớn để nhập khẩu dịch vụ vận tải của nước ngoài, đồng thời lại để tuột mất
cơ hội thu ngoại tệ khi xuất khẩu. Nguyên nhân khách quan một phần là do tập
quán của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nước
ta chưa có một đội tàu đủ mạnh, hoạt động rộng trên nhiều tuyến và cước phí
chưa cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư phát triển hệ
thống cảng biển, đi đôi với việc gia tăng đội tàu, tận dụng thế mạnh về vị trí
địa lý, hạ giá thành vận chuyển để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, giảm kim ngạch
nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Nếu cước phí vận tải chỉ chiếm 1% trong
tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu và ngành dịch vụ vận tải nước ta đảm
đương được thì kim ngạch xuất khẩu của ngành vận tải biển đã là trên dưới 250
triệu USD năm 2005 và 500 triệu USD năm 2010.
2.4. Các ngành dịch vụ khác
(ngân hàng, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục...):
Hiện nay, do các Bộ, ngành còn
đang thu thập số liệu về xuất - nhập khẩu dịch vụ liên quan tới ngành mình nên
Bộ Thương mại chưa tổng hợp được số liệu chính xác. Tuy nhiên, có thể sơ bộ ước
tính kim ngạch xuất khẩu của nhóm này sẽ đạt xấp xỉ 1 tỷ USD năm 2000 trong đó
chiếm tỷ trọng lớn là dịch vụ ngân hàng (thanh toán quốc tế, chuyển tiền, kiều
hối), bưu chính viễn thông và vận tải hàng không. Dự kiến kim ngạch của nhóm
này sẽ tăng khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1,6 tỷ USD năm 2005 và 2,6 tỷ
USD năm 2010.
Có thể hình dung, ngành dịch vụ
phát triển nhiều nhất vào thời kỳ 2001-2010 sẽ là xuất khẩu lao động, du lịch,
bưu chính viễn thông, vận tải và ngân hàng. Định hướng phát triển các ngành cụ
thể được tóm tắt qua bảng dưới đây:
Ngành
dịch vụ
|
Kim
ngạch 2005 (triệu USD)
|
Kim
ngạch 2010 (triệu USD)
|
- Xuất khẩu lao động
|
1.500
|
4.500
|
- Du lịch
|
1.000
|
1.600
|
- Một số ngành khác (ngân
hàng, bưu chính viễn thông, vận tải...)
|
1.600
|
2.000-2.500
|
Tổng kim ngạch XKDV
|
4.100
|
8.100-8.600
|
Tóm lại, tới năm 2010, kim ngạch
và cơ cấu xuất khẩu được dự kiến như sau:
Nhóm
hàng
|
Kim
ngạch 2010 (triệu USD)
|
Tỷ
trọng %
|
|
|
2000
|
2010
|
1. Nguyên nhiên liệu
|
1.750
|
20,1
|
3-3,5
|
2. Nông sản, hải sản
|
8.000-8.600
|
23,4
|
16-17
|
3. Chế biến, chế tạo
|
20.000-21.000
|
31,4
|
40-45
|
4. Công nghệ cao
|
7.000
|
5,4
|
12-14
|
5. Hàng khác
|
12.500
|
19,8
|
23-25
|
Tổng kim ngạch hàng hóa
|
48.000-50.000
|
|
100
|
Tổng kim ngạch dịch vụ
|
8.100-8.600
|
|
|
3. Cơ cấu hàng
hóa nhập khẩu:
Đối với hàng nhập khẩu thì
phương châm chung là:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết
bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Cố gắng sử dụng vật tư, thiết
bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ
sản xuất.
- Hạn chế tới mức tối đa có thể
được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Tập trung vào nhập thiết bị hiện
đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn
chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian.
Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010
dự kiến như sau:
Nhóm
hàng
|
Kim
ngạch 2010 (triệu USD)
|
Tỷ
trọng (%)
|
|
|
2000
|
2010
|
1. Máy móc thiết bị
|
18.000
|
27
|
36
|
2. Nguyên nhiên vật liệu
|
30.000
|
69
|
60
|
3. Hàng tiêu dùng
|
2.000
|
4
|
4
|
Tổng kim ngạch NK
|
50.000
|
100
|
100
|
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000
lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống
60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả
năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu,
một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng..., hàng tiêu
dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là
vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Nước ta còn đang trong quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do đó
chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy
thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các
nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trường theo
cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nước
ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước khác, đổi mới
cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế nhập khẩu,
giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim
ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ của
chiến lược 2001-2010.
Về thị trường nhập khẩu cần chuyển
dịch theo hướng giảm thiểu tỷ trọng của thị trường ASEAN nói riêng, Châu Á nói
chung xuống còn khoảng 55% (hiện nay ASEAN đang chiếm tới 30% kim ngạch xuất khẩu
của ta, riêng Singapore là 17-18%, toàn Châu Á chiếm xấp xỉ 80%). Tỷ trọng của
các thị trường cung ứng công nghệ nguồn như Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật
khoảng 12%, EU khoảng 10%, Bắc Mỹ chưa đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ trọng của
Nhật, EU và Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.
Cần chủ động thay đổi về căn bản
phương thức quản lý nhập khẩu theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế
"hợp lệ" như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường...,
hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ
cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để
những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng
trước hết chú trọng bảo hộ nông sản. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong
cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để
giảm dần, tiến tới xóa bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu và tích cực xúc
tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý
để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.
4. Cơ cấu dịch
vụ nhập khẩu
Các ngành dịch vụ mà ta phải chi
trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kiểm toán...), ngân hàng
(thanh toán, chuyển tiền...), bưu chính viễn thông, vận tải (hàng không, đường
thủy), thuê chuyên gia nước ngoài, du lịch, du học.... Tổng giá trị nhập khẩu dịch
vụ năm 2000 ước tính vào khoảng 1,2 tỷ USD. Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng
10,5% trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD
năm 2010.
Tuy nhiên, trong việc hoạch định
chiến lược xuất nhập khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2010 cần tính tới yếu tố hội nhập
quốc tế trong đó có hội nhập về dịch vụ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong giai
đoạn này thì lĩnh vực dịch vụ cũng sẽ phải từng bước mở cửa theo những nguyên tắc
của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tạo điều kiện cho các nhà
cung ứng dịch vụ nước ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Điều này
chắc chắn đặt các ngành dịch vụ của nước ta trước sự cạnh tranh gay gắt và sẽ ảnh
hưởng mạnh tới kim ngạch nhập khẩu dịch vụ của ta.
C. VỀ THỊ
TRƯỜNG XUẤT - NHẬP KHẨU
Một trong những khâu then chốt của
Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá
thị trường. Quan điểm chủ đạo là:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở
rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO;
- Đa phương hoá và đa dạng hoá
quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột;
- Mở rộng tối đa về diện song trọng
điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận các thị trường cung ứng công
nghệ nguồn;
- Tìm kiếm các thị trường mới ở
Mỹ La-tinh, Châu Phi.
Xuất phát từ các phương châm
chung nói trên, có thể tính đến vị trí của các thị trường như sau:
1. Khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương:
Tiếp tục coi trọng khu vực vày trong
10 năm tới vì ở gần ta, có dung lượng lớn, phát triển tương đối năng động. Thị
trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN, Trung Quốc (cả Hồng
Công), Nhật Bản, Đài Loan và Hàn quốc.
ASEAN là một thị trường khá lớn,
với khoảng 500 triệu dân, ở sát nước ta và ta là một thành viên, tuy trước mắt
gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triển còn lớn, lâu nay chiếm khoảng
trên dưới 1/3 kim ngạch buôn bán của nước ta, sắp tới, khi AFTA hình thành ta
càng có thêm điều kiện xuất khẩu và thị trường này. Mặt khác, ASEAN có nhiều mặt
hàng giống ta, đều hướng ra các thị trường khác là chính chứ chưa phải là buôn
bán trong khu vực là chính, trong những năm tới, khả năng xuất gạo, dầu thô cho
khu vực này sẽ giảm, trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của
ASEAN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường ta, do đó càng phải
ra sức phấn đấu gia tăng khả năng cạnh tranh để đi vào thị trường ASEAN, cải
thiện cán cân thương mại.
Các doanh nghiệp của ta cần tích
cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu
sang các thị trường này từ đó tăng kim ngạch nhưng giảm về tỷ trọng, hạn chế nhập
siêu. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào và Campuchia.
Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy
mạnh xuất khẩu sẽ là gạo, linh kiện vi tính, một vài sản phẩm cơ khí (đối với
các nước ngoài Đông Dương) và hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm
nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào và Campuchia). Về nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu
từ thị trường này sẽ là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, phân bón, linh kiện
vi tính - cơ khí - điện tử, xăng dầu, sắt thép, tân dược và một số chủng loại
máy móc, thiết bị, phụ tùng.
Trung Quốc là một thị trường lớn,
lại ở sát nước ta đồng thời lại là một nước có khả năng cạnh tranh cao không những
trên thị trường thế giới mà còn ngay trên thị trường nước ta. Với ý nghĩa đó ta
cần tích cực, chủ động hơn trong việc thúc đẩy buôn bán với Trung Quốc mà hướng
chính là các tỉnh Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc, phấn đấu đưa kim ngạch lên khoảng
3-4 tỷ USD. Một trong những phương cách là tranh thủ thoả thuận ở cấp Chính phủ
về trao đổi một số mặt hàng với số lượng lớn, trên cơ sở ổn định, thúc đẩy buôn
bán chính ngạch. Bên cạnh đó cần coi trọng buôn bán biên mậu, tận dụng phương
thức này để gia tăng xuất khẩu trên cơ sở hình thành sự điều hành tập trung và
nhịp nhàng. Đồng thời, cần chú trọng thị trường Hồng Công- một thị trường tiêu
thụ lớn và vốn là một khâu trung chuyển quan trọng nhưng gần đây có xu hướng
thuyên giảm trong buôn bán với ta.
Mặt hàng chủ yếu đi vào hai thị
trường này sẽ là hải sản, cao su, rau hoa quả, thực phẩm chế biến và hoá phẩm
tiêu dùng. Hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sẽ là hoá chất, thuốc trừ sâu,
một số chủng loại phân bón, chất dẻo nguyên liệu, bông, sắt thép, máy móc, thiết
bị và phụ tùng.
Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản
phải được cải thiện. Ta và Nhật cần có sự trao đổi, bàn bạc để đi đến ký kết
thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của VIệt Nam qui chế MFN đầy đủ.
Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông tin có liên quan đến phương
thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng
như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của Nhật. Đây là việc hết sức
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực
phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh. Ngoài ra, cần hết sức quan tâm đến thu hút vốn
đầu tư từ Nhật Bản.
Trong những năm tới mặt hàng chủ
lực xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ là: hải sản, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm
da, than đá cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản
phẩm gỗ. Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, chất
dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử tin học cơ khí, thuốc trừ sâu và nguyên liệu,
sắt thép, nguyên phụ liệu dệt- may - da.
Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu
lớn trong khu vực. Tuy nhiên, ta vẫn nhập siêu lớn, hàng xuất của ta vẫn chưa
có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất
khẩu sang Hàn Quốc, cần kiên trì thuyết phục bạn mở cửa thị trường. Cần chú trọng
tới một nhân tố mới là Nam - Bắc Triều Tiên cải thiện quan hệ, Hàn Quốc sẽ quan
tâm nhiều hơn tới Bắc Triều Tiên nhưng mặt khác tình hình Bắc Triều Tiên được cải
thiện cũng mở ra khả năng gia tăng buôn bán với Bắc Triều Tiên mà cho tới nay hầu
như không có.
Mục tiêu đặt ra là duy trì và đẩy
mạnh kinh ngạch xuất khẩu dệt may, hải sản, giày dép, cà phê, rau quả, than đá,
dược liệu, cố len vào thị trường nông sản. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị
trường này có thể là máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, chất dẻo
nguyên liệu, linh kiện điện tử - tin học - cơ khí, phân bón, sắt thép, tân dược
và nguyên phụ liệu dệt - may - da.
Đài Loan là bạn hàng xuất khẩu
quan trọng. Quan hệ thương mại trong những năm tới có thể thêm một số thuận lợi.
Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản
phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè. Sau năm 2000 có thể
có thêm các sản phẩm như cơ khí và điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài
Loan sản xuất tại Việt Nam có thể tăng phù hợp với xu thế dịch chuyển sản xuất
như đã nêu ở trên. Hàng nhập từ Đài Loan có thể là linh kiện điện tử - vi tính
- cơ khí, máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may - da, sắt thép.
2. Khu vực
Châu Âu
Chiến lược thâm nhập và mở rộng
thị phần tại Châu Âu được xác định trên cơ sở chia Châu Âu thành 2 khu vực cơ bản:
Tây Âu và Đông Âu.
Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU
mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia. Kim ngạch xuất
khẩu sang EU tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991 - 1999. Trong các quốc gia EU, Đức
là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nước thứ 9, pháp và Hà Lan đứng
thứ 12 và 13. Hàng hoá xuất sang EU chủ yếu là giầy dép, dệt may, cà phê, hải sản,
cao su, than đá, điều nhân và rau quả. Để phát triển hơn nữa xuất khẩu sang EU,
đòi hỏi cao về chất lượng và luật lệ phức tạp ở EU, cần tăng cường thu thập và
phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng hàng
hoá, nhất là hải sản và thực phẩm chế biến; tranh thủ việc EU coi Việt Nam là
"nước có nền kinh tế thị trường" để bảo đảm cho hàng hóa Việt Nam được
đối xử bình đẳng với hàng hoá các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện
pháp chống bán phá giá; tranh thủ EU nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước
ASEAN, chuẩn bị điều kiện gia tăng cạnh tranh trong việc thâm nhập thị trường
này sau khi bỏ hạn ngạch vào năm 2005.
Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể
tăng xuất khẩu vào EU nhưng trọng tâm vẫn sẽ là dệt may, giày dép, hải sản, rau
hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, và sản phẩm cơ khí. Mặt hàng nhập
khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, máy chế
biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay, hoá chất, tân dược, nguyên phụ liệu
dệt - may- da.
Quan hệ thương mại với các nước
Đông Âu và SNG, nhất là liên bang Nga có thể và cần được khôi phục bởi đây là
thị trường có nhiều tiềm năng. Ta cần thay đổi nhận thức về việc họ "dễ
tính", người tiêu dùng ở đây đã được tiếp cận với hàng hoá nhiều nước có
chất lượng cao hơn hàng hoá của ta; nhiều nước, trong đó có Trung Quốc, xâm nhập
mạnh mẽ vào khu vực này, đồng thời các nước này đều có khó khăn về khả năng
thanh toán.
Toàn bộ tình hình đòi hỏi ta phải
coi họ như những thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng yêu cầu hàng hoá có sức
cạnh tranh cao, đều vận hành theo cơ chế thị trường với một số đặc thù của giai
đoạn chuyển đổi. Theo hướng đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh
nghiệp thâm nhập thị trường này. Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cần được ra đời
sớm để bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu hàng hoá vào Nga và Đông
Âu theo phương thức "Nhà nước doanh nghiệp cùng làm", xây dựng một số
trung tâm tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ tận dụng cộng đồng người Việt để đưa hàng
vào Nga và Đông Âu, tạo một số cơ sở sản xuất tại chỗ...
Trọng tâm về hàng hoá xuất khẩu
sẽ là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may,
giày dép và thủ công mỹ nghệ. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là thiết bị năng lượng,
thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phân bón, sắt thép, phương tiện vận tải, lúa mỳ
và tân dược.
3. Khu vực Bắc
Mỹ:
Trọng tâm tại khu vực này là thị
trường Hoa Kỳ. Đây là nước nhập khẩu lớn hàng đầu thế giới (mỗi năm nhập khẩu tới
trên 1000 tỷ USD hàng hoá) với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa
học - công nghệ, công nghệ nguồn. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được
ký kết và phê chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của ta, đồng
thời thúc đẩy các nước đầu tư vào VIệt Nam để xuất sang Hoa Kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào
Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm
gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả
và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ
cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải, hoá chất, tân dược, sản phẩm cao
su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.
Các ngành hàng trên, nhất là chế
biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa cần bắt tay ngay vào việc nghiên
cứu thị trường Hoa Kỳ để thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng một số ngành
như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự quan tâm khá thích đáng
trong việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký kết Hiệp định nên hầu như
đã ở thế sẵn sàng để xuất phát.
4. Châu Đại
dương:
Trọng tâm tại khu vực châu Đại
dương là Australia và Newzealand. Quan hệ thương mại với hai thị trường này
phát triển tốt trong những năm gần đây chứng tỏ tiềm năng không nhỏ nhưng mức
khai thác vẫn còn thấp. Do đó, cần kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ
bạn hàng. Hàng hoá đi vào khu vực này chủ yếu sẽ là dầu thô, dệt may, giày dép
thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí điện. Hàng nhập
khẩu chủ yếu sẽ là máy móc, thiết bị, sắt thép, lúa mỳ, bột mỳ, sữa nguyên liệu
và tân dược.
5. Trung Cận
Đông, Nam Á, Châu Phi và Mỹ La-tinh:
Hàng hoá của Việt Nam hiện đã xuất
hiện trên các thị trường này nhưng chủ yếu là qua thương nhân nước thứ ba; kim
ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé. Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước
trong khu vực, kể cả những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hóa
tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau
thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh quan
thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Maghreb tại
Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh, Hiệp hội SAFTA... Thương mại giữa các nước
trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược
thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó
làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối.
Tóm lại, trong thời gian tới,
bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có
thì khâu đột phá có thể là gia tăng sự có mặt tại thị trường Trung Quốc, Nga, mở
ra thị trường Mỹ, châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ La-tinh.
Phần thứ
ba:
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ
BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ĐỂ THỰC HIỆN ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT - NHẬP KHẨU THỜI KỲ
2001-2010
Để đạt các mục tiêu và chỉ tiêu nêu
trên cần thực hiện đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp, trong đó có thể
có hai khâu then chốt:
Một là, có chính sách đầu tư thỏa
đáng không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng nâng cao năng suất, chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm (và cả dịch vụ) xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh
tranh quốc gia, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ Việt Nam.
Hai là, trên cơ sở kiên trì
chính sách mở cửa, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng
và đa dạng hóa thị trường.
Từ nhận thức như vậy, Bộ Thương
mại đề xuất các chính sách và biện pháp phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ như sau:
I. CHÍNH
SÁCH ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU HÀNG HÓA - DỊCH VỤ:
1. Về hàng hóa:
Để đạt được những mục tiêu đề ra
trong phần chính sách hàng hóa, một khâu có ý nghĩa quyết định là chính sách đầu
tư. Phù hợp với đòi hỏi của tình hình, chính sách đầu tư nên được thực hiện
theo các hướng sau:
1.1. Cần dành ưu tiên cao cho
các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn đối với các ngành thay thế nhập khẩu mà
năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư,
kể cả đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nên tập trung vào các ngành hàng chủ lực
và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hóa. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có
nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì
ưu đãi ít; đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến
hàng hóa thì, tùy theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Có chính sách ưu đãi, đặc
biệt là về thuế, để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm
trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm.
Nên tính tới việc thành lập Ngân
hàng Dữ liệu Công nghệ Quốc gia để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp; tạo
lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học - công nghệ được trả giá đúng
mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hóa đặc biệt; khuyến khích việc
ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học; thi hành
nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; áp dụng
chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu
để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ, đặc biệt là
công nghệ sạch.
1.2. Đối với nông sản, chú trọng
việc đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nâng cao chất lượng, hiêu
quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú
trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay còn rất hạn chế (Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã trình Chính phủ đề án về mặt này).
1.3. Nhà nước đặc biệt quan tâm
đầu tư trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại
quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại
(tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm
đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn cho các doanh nghiệp về luật
lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi...); đặc biệt cần hỗ trợ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin;
chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý.
1.4. Do FDI góp phần đáng kể cho
xuất khẩu nên cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ
để tăng sức hấp dẫn đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, nhất là trong lĩnh vực sản xuất để xuất khẩu. Tích cực, chủ động điều chỉnh
Luật Đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần, tiến tới xóa bỏ
sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy
trì môi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Phát
triển hợp lý các khu chế xuất, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia
tăng xuất khẩu. Mở rộng thị trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài đầu
tư ở nước ta, xuất sang các thị trường có dung lượng lớn.
1.5. Nguồn đầu tư nên được xác định
là: Nhà nước tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều
doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng,
thành lập các trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở nước ngoài... Trong các
khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá
nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế tới mức thấp
nhất, nhanh chóng tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế "xin - cho", bao cấp
trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Về dịch vụ:
Để đạt mục tiêu tăng trưởng bình
quân 15% trong thời kỳ 2001-2010, đưa kim ngạch xuất khẩu dịch vụ lên 8,1 tỷ
USD vào năm 2010 và đồng thời xuất siêu 4,7 tỷ USD về dịch vụ, cầu tập trung mọi
nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của mọi ngành dịch vụ, tận dụng cơ hội cũng
như đối phó với những thách thức do hội nhập quốc tế đem lại. Do tính chất đa
ngành trong lĩnh vực dịch vụ nên mỗi ngành đều cần có hệ thống chính sách, giải
pháp riêng để thực hiện mục tiêu của mình. Nhìn chung, các giải pháp lớn để
phát triển xuất khẩu dịch vụ có thể là:
2.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng:
Sức cạnh tranh của nhiều ngành dịch
vụ như bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch... phụ
thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ. Vì vậy cần tiếp
tục có chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng
vật chất kỹ thuật như đường xá, hệ thống sân bay, cảng biển, công nghệ viễn
thông, hệ thống khách sạn và khu du lịch... đủ tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng.
2.2. Chuyên nghiệp hóa, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của dịch vụ:
Dịch vụ ngày càng phát triển
nhanh chóng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và rất đa dạng. Bên cạnh đó, tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức mới, môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt hơn do sự xuất hiện của nhiều nhà cung ứng dịch vụ nước
ngoài; các hình thức bảo hộ đối với nhiều ngành dịch vụ sẽ phải giảm dần theo
các nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia (NT) của Hiệp định chung về
Thương mại dịch vụ (GATS). Vì vậy, mỗi ngành dịch vụ đều phải phấn đấu chuyên
nghiệp hoá phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn
quốc tế để có thể phát triển trong quá trình hội nhập.
2.3. Mở rộng các loại hình dịch
vụ xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và thị trường xuất khẩu:
Ngoài việc phát triển các loại
hình xuất khẩu dịch vụ hiện có, trong thời gian tới cần chú trọng thêm những
ngành còn nhiều triềm năng như y tế, giáo dục, xây dựng, kiểm toán, bảo hiểm...
Trong lĩnh vực vận tải và giao nhận cần tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý của
nước ta nằm ở ngã ba đường vận tải quốc tế để phát triển các dịch vụ tạm nhập
tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh.... Ngoài ra, cần đa dạng hoá các
phương thức kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu để tạo điều kiện nâng
cao giá trị xuất khẩu. Đồng thời, chuẩn bị kỹ lưỡng phương án cam kết về dịch vụ,
nhất là trong khuôn khổ đàm pháp gia nhập WTO để trên cơ sở đó hoạch định và từng
bước hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách trong lĩnh vực dịch vụ.
II. CÁC GIẢI
PHÁP VỀ THỊ TRƯỜNG:
Để chủ động thâm nhập thị trường
quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác
thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa
phương hoá các đối tác, cần đổi mới công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô
theo các hướng sau:
1. Phát triển mạnh công tác thị
trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện "ỷ lại
vào Nhà nước" và "phó mặc cho doanh nghiệp". Đẩy mạnh đàm phán
thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp,
cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng
với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá
các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng
rào phi quan thuế. Công tác thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu được gắn
kết chặt chẽ với nhau để vừa tăng cường sức mạnh trong đàm phán quốc tế, vừa
góp phần chuyển dần nhập khẩu của các doanh nghiệp từ thị trường nhập siêu
(châu Á) sang thị trường xuất siêu (Bắc Mỹ và Tây Âu).
2. Tăng cường mạnh mẽ công tác
thông tin về các thị trường: từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của
các nước, dự báo các chiều hướng cung- cầu hàng hoá và dịch vụ...
3. Chú trọng thu hút đầu tư của
các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất "chìa khoá trao
tay" (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin) đề vừa bảo
đảm thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu, vừa góp phần
chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có
hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao.
4. Tăng cường các biện pháp hỗ
trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trên thị trường ngoài, nhất là đầu tư trong
khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn
liền...) để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra. Xoá bỏ
thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ
tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường ngoài.
5. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến
thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông
tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu.
Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp
để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển
lãm... Tăng cường nghiên cứu các chương trình xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh
tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân, từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất,
tổ chức tiêu thụ. Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn giảm thuế thu nhập
cá nhân, cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp...) đối
với các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại
thương của ta ở nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và
thâm nhập thị trường quốc tế...
6. Đối với những mặt hàng mà ta
giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu...), tăng
cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc
độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện
có thể... để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi cho ta.
7. Ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp
có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước
để tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin; trực tiếp và thường
xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển
lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay
đổi trong sản xuất và kinh doanh; tự mình chủ động lo tìm bạn hàng, thị trường,
tự mình lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường,
tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp,
trợ giá; đặc biệt chú trọng giữ "chữ tín" trong kinh doanh để duy trì
chỗ đứng trên thị trường; phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn
hàng.
III. HOÀN
THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT - NHẬP
KHẨU:
Để tạo điều kiện cho việc thực
hiện thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ này đến năm 2010, cần
hoàn thiện môi trường pháp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, bổ xung và hoàn thiện
cơ chế chính sách xuất- nhập khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế theo hướng:
1. Rà soát lại hệ thống luật để
điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là Luật
Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về
Luật Thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của
WTO. Về Luật Đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để bảo đảm nguyên tắc
đối xử quốc gia (National Treatment) trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu
tư có liên quan đến thương mại (TRIMS), dịch vụ. Về Luật Khuyến khích Đầu tư
trong nước, cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc
phục tình trạng không rõ ràng giữa "thay thế nhập khẩu" và "định
hướng xuất khẩu". Có lộ trình thống nhất 2 luật đầu tư này thành 1 bộ luật
chung về khuyến khích đầu tư.
2. Ban hành các văn bản luật mới
để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc
gia như văn bản pháp luật về Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT), Luật Cạnh
tranh và Chống độc quyền, Luật Chống bán phá giá và Chống trợ cấp, Luật Phòng vệ
Khẩn cấp, Luật Chống chuyển giá (transfer pricing) - một chính sách rất quan trọng
đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc
gia.
Điều chỉnh hoặc ban hành mới các
quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở
nên quan trọng nhưng chưa đủ khung pháp lý như các lĩnh vực dịch vụ, xuất khẩu
tại chỗ (bán hàng thu ngoài tệ mạnh, bán hàng miễn thuế, giao hàng xuất khẩu
trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành sản phẩm xuất khẩu...), buôn
bán biên giới và buôn bán duyên hải, kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu...
Đặc biệt chú trọng khuyền khích đi đôi với việc quản lý các dịch vụ tái xuất,
chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng ưu thế về vị trí địa lý, tăng thu ngoại
tệ.
3. Xây dựng hệ thống các tiêu
chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng
dần sức cạnh tranh.
4. Trong hoạt động kinh doanh xuất-
nhập khẩu, kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh
đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền, mở rộng
đầu mối kinh doanh xuất- nhập khẩu, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham
gia xuất - nhập khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng
trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào (vốn, tín dụng, đất đai, lao động) cũng
như trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, kinh doanh từ phía Nhà nước.
5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách
hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiềnn hà,
và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh
nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính
sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để
không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Giảm dần,
tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Chấm dứt
tình trạng thay đổi chính sách có hiệu lực hồi tố và chấm dứt tình trạng hình sự
hoá các mối quan hệ dân sự. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng
thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và
xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài
chính và các cơ quan quản lý nhà nước).
6. Tiếp cận các phương thức kinh
doanh mới như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá (Commodity Exchange),
trong đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn (Future,
Forward, Options) để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá quốc tế, vừa tận dụng
được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ nay đến 2010 phấn đấu
hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại Việt Nam đối với 1, 2
mặt hàng xuất khẩu quan trọng (có thể lấy gạo hoặc cà phê làm thí điểm). Cần đặc
biệt lưu tâm tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, trong đó có việc tạo dựng
khung pháp lý cho hình thức thương mại đặc thù này.
7. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối
đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế- xã hội trong nước, vừa
có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến tiền đồng Việt Nam thành
chuyển đổi.
IV. VỀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ:
Về vấn đề này, Ban Cán sự Chính
phủ đã có báo cáo riêng trình Bộ Chính trị và Bộ Chính trị sẽ có Nghị quyết
riêng, do đó trong bản này chỉ xin nhấn mạnh một số biện pháp sau:
1. Tạo dựng sự nhất trí cao, quyết
tâm lớn trong việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ vững
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa để giành những ưu đãi về thương mại,
từ đó mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc
làm cho người lao động;
2. Xây dựng một lộ trình hợp lý,
phù hợp với điều kiện của ta và với cam kết quốc tế về giảm quan thuế, thuế hoá
đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia,
lịch trình bảo hộ... công bố công khai để các ngành có hướng xếp sắp sản xuất,
nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều cấp bách là xây đựng lộ trình tổng thể tham
gia AFTA, đi đôi với việc tích cực, chủ động xây dựng lộ trình đàm phán với
WTO. Thể theo các lộ trình đó, có chương trình điều chỉnh, sửa đổi, xây dựng
các văn bản pháp quy tương ứng;
3. Chủ động thay đổi về căn bản
phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế "hợp
lệ" như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường..., hạn ngạch
thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp. Giảm
dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu
thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xoá bỏ chế độ tính thuế
theo giá tối thiểu.
4. Tích cực xúc tiến việc xếp sắp
lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng; công bố lộ trình rõ ràng cho việc rỡ
bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ,
cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết chú trong bảo hộ nông sản.
5. Tận dụng các thể chế ưu đãi
dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển trong đàm phán song phương
và đa phương, cùng các nước ĐPT đấu tranh cho lợi ích của các nước nghèo. Nắm bắt
và tận dụng xu thế "khu vực hoá" để bắt tay với từng thị trường (hoặc
khu vực thị trường) riêng lẻ, vừa tạo thị trường xuất khẩu ổn định, vừa làm
quen dần với hội nhập kinh tế toàn cầu (WTO).
6. Nhà nước tăng cường phổ biến
kiến thức cho xã hội về hội nhập các doanh nghiệp chủ động tích cực tìm hiểu để
tận dụng những thuận lợi mới do quá trình hội nhập đem lai đồng thời ứng phó thắng
lợi với những thách thức nảy sinh.
V. VỀ ĐÀO TẠO
CÁN BỘ:
Kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Singapore...) cho thấy công tác đào tạo là một
trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước.
Ngày nay nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế
tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh
tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy để thực hiện thành công những mục
tiêu chiến lược đã đề ra, vấn đề tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, doanh nhân
có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu
đóng vai trò hết sức quan trọng.
Có thể nói tư duy kinh doanh,
nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung mới
ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với
mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14% năm thì nhu cầu về công nhân lành
nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí...) sẽ rất lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷ USD
hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300.000-400.000 công nhân, cứ xuất khẩu
1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3000-4000 công nhân... Vì vậy,
song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ doanh nhân có năng lực
phải chú trọng tạo dựng một đội ngũ công nhân đủ về số lượng, thạo về tay nghề
để thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu.
Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức
những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để hình thành dần đội ngũ doanh nhân có
năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến khích
doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nếu cần, có
thể xem xét lại chế độ tiền lương cho người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước.
VI. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN:
Để thực hiện thành công những mục
tiêu chiến lược đã đề ra, cần tiến hành các biện pháp sau:
1. Tham khảo bản chiến lược này
đã được Chính phủ thông qua, đề nghị các Bộ, ngành và các địa phương sớm hình
thành chiến ược phát triển xuất khẩu của ngành và địa phương mình.
2. Tăng cường và làm sáng rõ hơn
trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ và các địa phương trong các
khâu quy hoạch, tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Xem xét khả năng xây dựng một
số chương trình xuất khẩu trọng điểm với sự tham gia của các bộ, ngành, địa
phương hữu quan với một cơ quan chỉ đạo tập trung. Tăng cường quan hệ hợp tác,
phối hợp giữa các Bộ với các tổ chức đại diện doanh nghiệp (như Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành hàng...).
3. Giao Bộ Thương mại phối hợp với
các bộ ngành hữu quan xây dựng đề án cải tiến một cách cơ bản và tăng cường mạnh
mẽ công tác thông tin dự báo và thông tin thị trường để giúp các cơ quan nhà nước
xây dựng quy hoạch, hình thành chính sách, điều hành, các doanh nghiệp kinh
doanh, trong đó có việc hiện đại hóa hệ thống thông tin thương mại trong cả nước.
4. Củng cố hệ thống xúc tiến thương
mại (ở cả Trung ương và địa phương), trong đó có việc hình thành và phát triển
Cục Xúc tiến Thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng khung pháp lý và thực
hiện sự quản lý nhà nước, điều hòa, phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong
cả nước. Từng bước hình thành các trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài.
Ban hành quy chế thưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp mở rộng được thị trường,
tìm thêm được đối tác. Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiẹp đầu tư ra
nước ngoài, đặc biệt trong việc thành lập các trung tâm thương mại, kho ngoại
quan... để giới thiệu, đưa nguyên liệu, hàng hóa sang và tổ chức sản xuất hàng
hóa xuất khẩu ngay tại thị trường đó.
5. Mở rộng việc hình thành và củng
cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập
thể trong môi trường cạnh tranh. Khắc phục xu hướng "quốc doanh hóa hiệp hội",
khẳng định nguyên tắc cơ bản của các hiệp hội là nguyên tắc"mở", quy
tụ tất cả các doanh nghiệp có chung quyền lợi, bất kể thành phần kinh tế, bất kể
quy mô. Khuyến khích các hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham
gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả.
6. Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín
dụng Xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước
(1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với
lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng qua việc cấp tín dụng với
lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua nước
ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng Xuất Nhập khẩu. Nghiên cứu thành lậpQuỹ hoặc
Công ty Bảo hiểm Xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị
trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm
đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động. Nhà
nước có chính sách thưởng cho các doanh nghiệp, cá nhân làm tốt công tác xuất
khẩu.
7. Thiết kế mạng lưới các cơ
quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, kể cả Tham tán thương mại phục vụ thiết
thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường
trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh
nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở văn
phòng đại diện ở bên ngoài để tiếp thị, xúc tiến xuất khẩu.
8. Giao Bộ Thương mại cùng Uỷ
ban công tác người Việt ở nước ngoài hình thành mạng lưới người Việt sinh sống ở
nước ngoài làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam.
9. Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo
phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan lập chương trình đào tạo cán bộ, công nhân
lành nghề phục vụ cho hoạt động xuất - nhập khẩu thời gian tới.
10. Giao Bộ Thương mại giúp Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai Chiến lược Phát triển Xuất - nhập khẩu
theo hướng:
- Các bộ ngành sản xuất cần phối
hợp với Bộ Kế hoạch - Đầu tư, BộThương mại xây dựng các chương trình, kế hoạch
xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực, từ khâu sản xuất tới khâu tiêu
thụ; hướng dẫn, hỗ trợ các nhà sản xuất thực hiện;
- Bộ thương mại cùng Bộ Tư pháp
có chương trình xây dựng các văn bản pháp quy để trìnhThủ tướng Chính phủ hoặc
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét;
- Các Bộ, ngành thành viên Uỷ
ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban, sớm
hoàn tất việc xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế trình Chính phủ thông qua;
- Các Bộ Tài chính, Kế hoạch - Đầu
tư, Thương mại, Ngân hàng Nhà nước xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách
về tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích xuất khẩu;
- Bộ Thương mại chủ trì xây dựng
các đề án triển khai các chủ trương nêu trong Chiến lược nhằm hoàn thiện, đối mới
hoạt động, kinh doanh xuất - nhập khẩu trình Thủ tướng Chính phủ.