Phân loại chất lượng
động vật đáy không xương sống macrô
|
Giải thích
|
Rất tốt
|
Quần xã quan sát được tương đương hoàn toàn
hoặc gần như hoàn toàn với điều kiện của nơi không có các tác động nhân tạo
hoặc được coi là không đáng kể (không bị xáo trộn).
|
Tốt
|
Có các thay đổi nhỏ trong quần xã được quan
sát khi so sánh với quần xã đối chứng
|
Trung bình
|
Thành phần của quần xã được quan sát không
giống, ở mức trung bình, so với quần xã đối chứng. Các nhóm chính bị thiếu
khi so sánh với các nhóm trong danh mục phân loại của quần xã đối chứng.
|
Xấu
|
Thành phần của quần xã được quan sát không
giống ở mức đáng kể so với quần xã đối chứng. Nhiều nhóm bị thiếu so với các
nhóm trong danh mục phân loại của quần xã đối chứng.
|
Rất xấu
|
Quần xã được quan sát bị suy giảm trầm
trọng khi được so sánh với quần xã đôi chứng. Chỉ các nhóm phân loại có khả
năng sống trong điều kiện cực kỳ bị xáo trộn là có mặt.
|
Cần phải ghi lại những địa điểm không tìm
thấy động vật đáy không xương sống macrô, ví dụ do vì nơi đó quá độc.
Cấp trên cùng của sự phân loại “chất lượng
sinh học động vật đáy không xương sống macrô rất tốt”, chứng tỏ điều kiện của
địa điểm không có các tác động tự nhiên hay nhân tạo đáng kể hoặc được coi là
các tác động đó không đáng kể. Các cấp còn lại đã được xem xét và cho thấy mức
tăng dần của các tác động nhân tạo. Cấp trên cùng phải đủ rộng để thoả mãn cho
tính thay đổi tự nhiên của các quần xã. Cần phải ước lượng sự thay đổi xẩy ra
một cách tự nhiên bằng sự quan sát các địa điểm đối chứng và/hoặc bằng kỹ thuật
dự đoán trước. Các cấp chất lượng còn lại cần được chia thành bốn phần để chỉ ra
sự gia tăng tác động nhân tạo.
Chú thích - Nếu sự thay đổi tự nhiên tạo ra
chất lượng động vật đáy không xương sống macrô thuộc vào cấp chất lượng cao mà
cấp này là phần chính của bảng phân loại thì các phân cấp trong các cấp còn lại
không cần phải diễn giải nữa, vì lúc đó các phân cấp này không được coi là còn
có tác động nhân tạo.
Phụ
lục A
(tham khảo)
Phương
pháp luận để so sánh phân loại
A.1 Xem xét chung
Việc thực nghiệm so sánh cho phép thực hiện
sự chuyển đổi giữa các phân loại mà không cần lấy mẫu và phân tích dữ liệu của
mỗi phân loại vào thời điểm cần so sánh. Việc so sánh phải được thực hiện giữa
các chỉ số và/hoặc điểm số hơn là giữa các phân loại. Sự so sánh điểm số/chỉ số
chỉ phù hợp khi các dữ liệu đã là đúng cho đầy đủ các địa điểm lấy mẫu. Nếu mối
quan hệ giữa các chỉ số được thiết lập bằng sử dụng kỹ thuật hồi qui[22]
thì sự chuyển đổi lẫn nhau giữa các phân loại mới có thể thực hiện được.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Chỉ các chỉ số dùng để đánh giá cùng một khía
cạnh của tác động nhân tạo là được so sánh với nhau.
Ví dụ, Sprobien[15] , BMWP - Điểm
số trung bình trên danh mục phân loại (ASPT )[13] và IBGN[14]
có thể làm nổi bật sự ô nhiễm hữu cơ và vì thế là phù hợp cho việc so sánh.
Thực hiện việc so sánh các chỉ số bằng sử
dụng các dữ liệu đã sưu tầm được cho đủ toàn bộ phạm vi của mỗi cấp trong phân
loại đang được xem xét và từ đó các cấp phân loại được định ra. Một khi các dữ
liệu có thể từ tất cả các cấp/chất lượng, của tất cả các hệ thống đang được so
sánh thì phải được sử dụng trong việc so sánh.
Khi tiến hành so sánh nhiều hơn hai chỉ số
hoặc điểm số thì mỗi chỉ số/điểm số cần được so sánh với chỉ số đơn hoặc điểm
số đơn (điểm số/chỉ số đường cơ sở): không nên tạo ra một bảng ma trận của tất cả
sự so sánh có thể. Ngoài ra còn khuyến cáo rằng điểm số đường cơ sở phải là
những điểm có sai số lấy mẫu và phân tích nhỏ nhất
Cần phải so sánh bằng cách lấy mẫu từng địa
điểm dùng tất cả các phương pháp lấy mẫu tương ứng với chỉ số đang được so
sánh. Điều quan trọng là các mẫu được lấy cùng thời gian của năm và từ cùng
loại sinh cảnh, nếu không thì các biến đổi theo mùa hoặc các thay đổi của vi
sinh cảnh sẽ làm tăng mức độ biến đổi giữa các bộ dữ liệu. Lấy mẫu phân tầng,
đúng thời gian (theo mùa) và theo loại sinh cảnh (các chỗ nông, đáy sông,
v.v), làm giảm tính đa dạng và vì vậy làm tăng bậc thống kê[22].
A.2 Xem xét thống kê
Khi không tìm được sự khác biệt cho một chỉ
số hoặc điểm số giữa các địa điểm) (giá trị dự kiến và quan sát được) hoặc các
năm (dãy thời gian cho cùng một địa điểm), điều quan trọng là để xác định tính
xác suất của sai số loại II[22] (bêta). Đơn giản là đặt câu hỏi,
liệu bậc thống kê này (sai số bêta loại I) của phép thử có đủ lớn để tìm ra sự
khác biệt nếu nó tồn tại?
Cần phải cẩn thận khi lựa chọn và sử dụng
nhiều chỉ số sinh cảnh trong nghiên cứu quan trắc sinh học. Các chỉ thị ô nhiễm
đặc trưng có thể rất là hữu ích để phát hiện ra sự cải thiện của chất lượng
sinh cảnh, vì chỉ số hay điểm số sẽ thay đổi khi một đơn vị phân loài đơn lẻ
của Họ (ví dụ BMWP[13] ) hoặc biên độ pH (ví dụ điểm số axít hoá)[18]
được lưu lại như là giá trị hiện tại. Tuy nhiên, điều cố hữu trong phương pháp
đã đơn giản hoá này là khả năng có các thay đổi không phát hiện thấy (sai số
bêta). Ví dụ, nếu sử dụng các phương pháp phân hạng theo điểm số để monitoring
sự xuống cấp của sinh cảnh, thì sự thay đổi thực tế trong đa dạng của các loài
động vật không xương sống macrô có thể xẩy ra trước khi chuyển đổi điểm số- đặc
thù cho địa điểm, phát ra tín hiệu bị tác động[24]. Việc sử dụng
điểm số RIVPACS[12] và BMWP[13] để tính toán tỷ số giữa dữ
liệu quan sát được và dữ liệu đối chiếu đã cho thấy rằng các phép thử nghiệm có
ý nghĩa thống kê có thể làm rõ sự khác biệt giữa các địa điểm hoặc tại một địa
điểm đã cho trong mọi thời gian.[23].
Về các phép thử thống kê: cần phải cẩn thận
khi ứng dụng các phép thử về thông số đối với nhiều chỉ số sinh cảnh. Một phương
pháp thay thế là tiến hành thử bằng cách sử dụng các qui trình ngẫu nhiên đang
là một phương pháp thông dụng hơn.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[1] NEWMAN P.J. Classification of surface
water quality.Review of the schemes used in EC Member States. Heinemann,
Oxford, 1988.
[2] ROSENBEG D.M. and RESH V.H. Freshwater biomonitoring
and benthic macro invertebrates. Chapman and Hail, London, 1993.
[3] METCALFE J.L. Biological water quality
assessment of running water based on macroinvertebrates cummunities: history
and present status in Europe. Environment Pollution,60,pp. 101 - 139, 1989.
[4] BRITTAIN J.E and SAITVEIT S.J. The use
of macroinvertebrates in watercourse monitoring. Vann 1-84,pp. 116-122, 1984
(in Norwegian).
[5] DE PAUW N. , GHETTI P.F., MANZINI P. and
SPAGGIANI R. Biological assessment methods forrunning waters. In: River water
quality , Ecological assessment and control, 1992
[6] ON M 6232. Richtlinien fur die
okologische Unteruchung und Bewertung von FlieBgenwassern 2sprachige Fassung.
(Guidelines for the ecological study and assessment of water,bilingual
edition).
[7] Bundesministerium fur Land- und
Forstwirtschaft, Fauna aquatica austriaca, katalog zur autokologischen
Einstufung aquatischer Organismen Osterreichs; Moog O. (ed). Univ. fur
Bodenkultur, Abt. Hydrobiol., Fischereiwirtschaft und Aquakultur, 1995.
[8] Environment Agency Assessing Water
Quality - General Quality Aseessment (GQA) scheme for Biology. Environment
Agency, Bristol, UK, 1997.
[9] KNOBEN R.A.E., ROOS C. and VAN OIRSCHOT
M.C.M. Biological Assessment methods for watercourse. Vol. 3, UN/ECE Task Force
on Monitoring and Assessment Vol. 3, RIZA, Lelystad, 1995.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[11] REIJNEN R., HARMS W.B., FOPPEN R.P.B.,
DE VISSER R. and WOLFERT H.P. Ecological networks in river rehabilitation
scennarios : A case study for the Low Rhine, Rhine-Econet Report No.58, RIZA,
Lelystad, 1995 .
[12] Wright J.F., FURSE M.T., and ARMITAGE
P.D. Use of macroinvertebrate communities to detect environment stress in
running water. In: Water quality and stress indicators in marine and freshwater
systems: linking levels of organisation, Sutcliffe D.W. (ed). Freshwater
Biological Association, pp. 15-34, 1994.
[13] River Water Quality: the 1980 survey
and future outlook. National Water Council, London, 1981.
[14] Agency de l'eau, Ministere de
l'Environnement, Conseil Superieur de la Peejche, Indice biologique global
normalise (IBGN) - NF T 90-350 - Cahier technique. Gay Environnement, 1995.
[15] DIN 38410 Teil 2, Deutsche Einheitsverfahren
zur Wasser-, Abwasser- und Schlammuntersuchung: Biologisch-okologische Gewasseruntersuchung
des Saprobienindex (M2),1991.
[16] PEETER E.T.H.M., GARDENIERS J.J.P. and
TOLKAMP H.H. New method to assess the ecological status of surface waters in
the Netherlands. Part 1: Running waters. Verh. Internat. Varein. Limnol., 25,
pp. 1914-1916, 1994.
[17] JOHNSON R.K. The indicator concept in
freshwater biomonitoring. In: Chironomids (from genes to ecosystems). \Cranston
P. (ed). SCIRO, Canberra, pp. 11-26, 1995.
[18] HELLAWELL J.M. Biological indicators
for freshwater pollution and environmental management. Elsevier, London and New
York, 1988.
[19] METCALFE-SMITH J.L. Biological
water-quality assessment of rivers: Use of macroinvertebrate communities. In:
The rivers Handbook: hydrological and ecological principles Vol. 2, Calow P.
and petts G.E. (eds), Blackwell, Oxford, 1994.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
[21] PEETERS E.T.H.M. and GARDENIES J.J.P.
Logistic regression as a tool for defining habitat requirements of two common
gammarids. Freshwater Biology, 39, pp. 605-615, 1998.
[22] SOKAL R.R. and ROHLF F.J. Bioemetry,
the principles and practice of statistics in biological research. 3rd adn.,
W.H. Freeman, New York, 1995.
[23] National rivers authority Biological
assessment methods: Controling the quality of biological data. National river
authority, Bristol, UK, 1995.
[24] JOHNSON R. Personal communication.